Đồng thời, Sư đoàn 1 cùng các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia đánh bại chế độ diệt chủng Pol Pot, tham gia xây dựng chính quyền, huấn luyện các lực lượng cho Quân đội Campuchia...
Sau khi chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam, trong đó có chiến trường Tây Nguyên, nơi được coi là nóc nhà Đông Dương, nếu bên nào nắm giữ được Tây Nguyên sẽ làm chủ cả Đông Dương. Theo Thiếu tướng Lộ Khắc Tâm, Trưởng ban liên lạc Sư đoàn 1, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến (Bộ Tổng Tham mưu): Thời điểm đó, Bộ Tổng Tư lệnh đánh giá nếu Tây Nguyên ở trong tay địch thì rất khó cho chiến trường miền Nam. Vì vậy, phải chủ động phát triển lực lượng vào Tây Nguyên để giành thế chiến lược. Ngoài Trung đoàn 320 đã được Bộ Tổng Tư lệnh tăng cường vào Tây Nguyên trước đó, năm 1965, Bộ Tổng Tư lệnh bổ sung cho Tây Nguyên thêm Trung đoàn 33 và Trung đoàn 66.
 |
| Binh sĩ quân đội Mỹ thương vong do bị các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 tiến công. (Ảnh Peter Amell chụp tháng 11-1965) |
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về chủ trương thành lập các đơn vị chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên (Mặt trận B3), ngày 15-8-1965, đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó tổng Tham mưu trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Hoàng Kiện, Tư lệnh Sư đoàn 304 và đồng chí Nguyễn Nam Khánh, Chính ủy Lữ đoàn 305 vào Tây Nguyên để nghiên cứu thành lập sư đoàn chủ lực mới. Trong cuốn “Miền Trung-những tháng ngày không quên” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2003), Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh viết: “Bộ quyết định điều Sư đoàn 304 (thiếu) vào tăng cường cho Mặt trận B3, nhưng do yêu cầu phải giữ bí mật cả về danh chính ngôn thuận và về thủ tục hành chính không thể trao tay quyết định cho các đồng chí được (đã đưa vào cơ quan lưu trữ của Bộ). Nhưng trong thực tế, từ giờ phút này, các đồng chí đã thuộc quân số Quân giải phóng miền Nam. Chúc các đồng chí lên đường thắng lợi. Hy vọng sớm nhận được chiến công của các đồng chí trong đó gửi ra”.
Ngày 22-9-1965, hai đồng chí cùng bộ khung sư đoàn đã tới Sở chỉ huy Mặt trận B3 để triển khai thành lập Sư đoàn 1. Tuy nhiên tình hình chiến sự cấp bách, yêu cầu phải khẩn trương triển khai Chiến dịch Plei Me nên các đơn vị tập trung chuẩn bị chiến đấu, lùi việc thành lập sư đoàn lại. Để đánh phủ đầu quân Mỹ khi mới đặt chân đến Tây Nguyên, các đơn vị có mặt ở Tây Nguyên đã cùng cơ quan tham mưu Mặt trận B3 khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, chọn Plei Me là căn cứ huấn luyện biệt kích lớn nhất Tây Nguyên để bao vây khống chế, buộc Mỹ phải cho quân đến tăng viện. Ngày 19-10-1965, mở màn Chiến dịch Plei Me, sau một tháng chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, ta đã giành thắng lợi vang dội.
Đại tá Đinh Quốc Kỳ, nguyên chiến sĩ Trung đoàn 33, Sư đoàn 1 (nguyên điều tra viên cao cấp, Cục Điều tra hình sự, Bộ Quốc phòng) nhớ lại: Sau Chiến thắng Plei Me, Quân giải phóng và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đã xóa sổ Chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy; diệt gọn 2 tiểu đoàn biệt động quân ngụy; diệt gọn Tiểu đoàn 2 và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7, Lữ đoàn 3, Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ; bắn cháy, phá hủy 89 xe quân sự, trong đó có 1/3 là xe tăng và xe bọc thép; phá hỏng 5 pháo 105 ly; bắn rơi và bắn cháy 59 máy bay các loại; thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng Mỹ... Trong chiến dịch này, Lữ đoàn 1 và Lữ đoàn 3, Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ đã bị tổn thất nặng nề, tháo chạy khỏi thung lũng Ia Đrăng (Gia Lai) và cuộc hành quân “Lưỡi lê bạc” của Mỹ bị phá sản. Thắng lợi của Chiến dịch Plei Me có ý nghĩa to lớn về chính trị, làm hạ uy thế của quân viễn chinh Mỹ; cổ vũ ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân dân ta.
Ngày 20-12-1965, Bộ Tổng Tư lệnh tuyên bố chính thức quyết định thành lập Sư đoàn 1 với mật danh “Đoàn Lê Lợi”; sau đó là các mật danh “Nông trường 1” và “Công trường 1”... Đội hình Sư đoàn 1 ban đầu gồm có 3 trung đoàn bộ binh (320, 33, 66) đều được thử thách qua lửa đạn của Chiến dịch Plei Me. Ngoài ra còn có các tiểu đoàn, là những đơn vị tham gia đánh Mỹ trận đầu và đã gây cho Mỹ-ngụy nỗi kinh hoàng. Thời điểm đó, báo chí Mỹ buộc phải thốt lên: “Ia Đrăng đã làm hại một đời Tổng thống Mỹ, đẩy dân tộc Mỹ đối lập với chính mình”.
Mặt trận B3 là địa bàn rộng lớn với núi cao, vực sâu, rừng rậm hiểm trở, đói cơm, nhạt muối, bệnh tật, đạn bom ác liệt... nhưng không làm cho cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 1 sờn lòng. Đơn vị đã đảm đương một chiến trường với bao chiến công lẫy lừng của các chiến dịch: Plei Me, Đông-Tây sông Sa Thầy, Đăk Tô-Tân Cảnh, Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, Nam Tây Nguyên... gần 3 năm trên chiến trường Tây Nguyên, Sư đoàn 1 đã tham gia 11 chiến dịch, đánh 476 trận, diệt gần 22.000 tên địch (trong đó có 16.145 tên Mỹ, bắt sống 23 tên); diệt gọn 7 tiểu đoàn (có 5 tiểu đoàn Mỹ); bắn rơi và bắn cháy 368 máy bay các loại; phá hủy 526 xe (có 263 xe tăng và M113); thu 449 súng các loại và 54 máy vô tuyến điện... Thời gian này, Sư đoàn 1 được nhận các trung đoàn: 88, 174, 209, 28, 101.
Những chiến công vang dội của Sư đoàn 1 từ Chiến dịch Plei Me lịch sử, trận đầu đánh Mỹ và thắng Mỹ, chúng ta đã tìm ra cách đánh hiệu quả nhất. "Bám thắt lưng địch" để đánh gần, đánh trúng, giảm thương vong do phi pháo địch gây nên, chủ động tiến công, tiến công liên tục được thể hiện gặp Mỹ là đánh, tìm Mỹ mà diệt, lấy tiếng súng làm hiệu lệnh hiệp đồng chiến đấu. Chúng ta buộc quân Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta, làm cho chúng luôn bị động, lúng túng đối phó. Đồng thời, quân ta đã sáng tạo chiến thuật “Vận động tiến công kết hợp chốt”, được phổ biến rộng rãi trong toàn quân.