Lực lượng giải phóng quần đảo do đồng chí Tạ Văn Thiều (sau này là Thiếu tướng Mai Năng) khi đó là Đoàn trưởng Đoàn 126 trực tiếp chỉ huy, đã lập nên chiến công vang dội, giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. 

Sinh thời, ông từng chia sẻ với chúng tôi về quyết tâm chiến đấu, nghệ thuật tác chiến đặc công và những khoảnh khắc không thể nào quên trên từng tấc đảo thiêng liêng của Tổ quốc trong những ngày tháng 4-1975 lịch sử.

Thiếu tướng Mai Năng cho biết, quyết tâm của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Hải quân là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng khác lợi dụng tình hình đến đánh chiếm đảo. Bộ tư lệnh quyết định dùng phân đội tàu của Đoàn 125, chở Đội 1 (Đoàn 126 Đặc công Hải quân) và một lực lượng của Quân khu 5 ra giải phóng các đảo. Chủ trương của ta là giải phóng Song Tử Tây trước, tiếp đó, tiến đánh các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa... Phương châm tác chiến là giữ cho được yếu tố bí mật, bất ngờ tấn công. Thời cơ đánh đảo lợi dụng yếu tố thủy văn, đổ bộ lên đảo khoảng từ 0 giờ đến 2 giờ sáng...

Nhiệm vụ giải phóng đảo rất khẩn trương, Bộ tư lệnh Hải quân giao cho đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh Quân chủng phụ trách. Đoàn 125 cử một biên đội gồm 3 tàu: 673, 674 và 675 thực hiện nhiệm vụ chở quân đi giải phóng đảo và tham gia chiến đấu. Đơn vị giải phóng các đảo là Đội 1 (Đoàn 126) do đồng chí Đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy.

Đảo Song Tử Tây cách Đà Nẵng 480 hải lý, trước đây, nhờ những lần chở vũ khí cho chiến trường, các thủy thủ Đoàn 125 thường xuyên qua lại vùng biển này nên đã giúp họ nhận biết đảo không mấy khó khăn. Khó khăn lớn là, phần đông anh em Đội 1 chưa quen hành quân trên biển dài ngày, sóng to, gió lớn, nên đều bị say sóng, giảm sút sức khỏe. Một vấn đề khó khăn nữa đối với lực lượng đặc công là anh em quen tác chiến trên sông và ven biển: Đánh tàu, đánh cảng... Thực hành chiến đấu mắt thấy, tai nghe, tay sờ, chân đến. Còn đánh các căn cứ trên đảo thì đây là lần đầu tiên. Vì vậy, chúng tôi xác định phải tìm ra phương án tác chiến và nêu cao quyết tâm ngay từ đầu. Tôi đề nghị với đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh Quân chủng Hải quân phương án: Thực hiện trinh sát vũ trang (trinh sát đến đâu, đánh đến đó), giải phóng từng đảo một, chắc thắng đảo này tiến tới đảo khác và được đồng chí Thái chấp thuận.

Bộ đội Hải quân giải phóng đảo Song Tử Tây ngày 14-4-1975. Ảnh: nhandan.vn 

Từ Đà Nẵng, chúng tôi hóa trang thành ngư dân trên 3 tàu đi giải phóng các đảo. Mặc dù say sóng nhưng khi nghe mệnh lệnh chiến đấu, anh em đều cố gắng, không ai nản chí. Mọi người đều chung một ý chí là quyết tâm thực hiện tinh thần chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa, xa mấy cũng đi, khó mấy cũng đánh, đã đến là đánh, đánh quyết tâm thắng”.

Theo phương án, chọn đảo Song Tử Tây để đánh trận mở màn, tôi giao cho đồng chí Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy… Ba ngày đêm lênh đênh trên mặt biển, giấu quân trong những khoang hàng của con tàu vận tải Đoàn 125 để tránh những cặp mắt trinh sát trên máy bay của địch, chúng tôi phải chịu nóng, mệt, say sóng không ăn uống gì được. Đồng chí Quế là Đại đội trưởng nhưng cũng bị “sóng đánh” cho mệt nhoài; nên khi sang tàu tôi hội ý nhận định quyết tâm, vừa bước vào buồng chỉ huy, đồng chí Quế đã nằm xoải ra giường. Thấy vậy, tôi đã hỏi vui: - Cậu đã “nhai cơm nuôi cá” (nghĩa là nôn) chưa?.

- Dạ! Chỉ nhức đầu thôi ạ.

Tôi nhìn Nguyễn Ngọc Quế, nói tiếp:

Trận này ta có khó khăn, địch trên đảo bao nhiêu, bố trí ra sao, mình chưa được trinh sát thực tế. Mấy ngày liền, sóng quần cho anh em mệt mỏi rồi, tới nơi phải hành động ngay, khó khăn nhiều càng đòi hỏi người chỉ huy suy nghĩ, tính toán, tổ chức cho chặt chẽ, dự kiến tình huống cho hết để bất cứ hoàn cảnh nào cũng giành chủ động.

Nguyễn Ngọc Quế báo cáo phương án chiến đấu với tôi và các đồng chí trong ban chỉ huy. Mọi người rất hài lòng với những dự kiến của anh, không ai bổ sung gì thêm. Nghe báo cáo xong, tôi dặn:

- Chú động viên anh em phát huy truyền thống đơn vị anh hùng, tập trung chiến đấu giành thắng lợi. Nhớ phải kiểm tra chu đáo trước khi đổ bộ.

Trở về tàu nơi các chiến sĩ đang nằm nghỉ, Nguyễn Ngọc Quế gọi anh em dậy quán triệt nhiệm vụ: Giờ G sắp tới, các phân đội cho anh em kiểm tra lại lần cuối cùng chuẩn bị hành động. Quế ra lệnh dứt khoát, cả khoang tàu nhộn nhịp khẩn trương. Trước mắt các chiến sĩ, đảo Song Tử Tây như một sợi chỉ hiện lên ở phía chân trời. Những chiếc xuồng trên Tàu 673 được thả xuống, các tổ chiến đấu bám sát nhau xuống xuồng. Đích của họ là những cây dừa, mỏm cát nhỏ xíu nổi lên trên đảo. Sóng to, nước chảy xiết, một vài tổ bị sóng đánh lật xuồng. Anh em dồn hết sức mình bơi vào đảo. Các mũi đột kích vừa bám được đảo đã cho anh em triển khai áp sát mục tiêu và khu chỉ huy của địch. Các hỏa lực do Đại đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy khẩn trương chiếm lĩnh trận địa.

Vài tên địch đang canh gác trên đảo bấm đèn pin lập lòe đi soi chim thấy khả nghi chúng liền bắn mấy loạt vu vơ. Bị lộ rồi chăng? Nguyễn Ngọc Quế bình tĩnh tiếp tục theo dõi hành động của chúng. Trước mắt anh, chiếc cột đèn bằng trụ thép thời bọn lính Pháp dựng lên như chiếc thập ác. Anh nhìn rõ hai dãy nhà mái tôn giữa đảo và căn hầm chỉ huy nổi lên phía tây cạnh hàng dừa 54 cây cao hơn 4m. Thấy địch không có hành động gì tiếp, Quế ra lệnh cho các tổ tiếp tục trinh sát địch và chuẩn bị chiến đấu.

Sau khi kiểm tra lại các vị trí chiến đấu, đúng 4 giờ 30 phút, Nguyễn Ngọc Quế lệnh cho chiến sĩ ĐKZ khai hỏa mở màn cho trận đánh. Một luồng lửa đỏ lao tới chụp vào giữa khu trung tâm đảo Song Tử Tây. Ngay lập tức, hỏa lực B.40, B.41 vun vút lao vào các mục tiêu trên đảo. Tiếng súng AK, tiếng lựu đạn khắp bốn phía nổ ra như pháo dậy. Bị đánh bất ngờ, bọn địch nhốn nháo chạy ra tìm súng bắn trả loạn xạ. Địch đang hoảng loạn. Nguyễn Ngọc Quế hô to: Xung phong! Các chiến sĩ ta từ bốn phía ào lên. Từ phía sau bia chủ quyền, Lê Xuân Phát chạy tới cột cờ giật mạnh mảnh vải có 3 sọc đỏ rách tã xuống và kéo cờ đỏ sao vàng năm cánh lên đỉnh cột. Ở bến đảo phía Nam, một toán địch vừa bắn vừa chạy về phía hai chiếc xuồng máy định tẩu thoát. Nguyễn Ngọc Quế liền hô to: “Anh em binh sĩ ngụy Sài Gòn, hàng thì sống, chống lại thì chết”. Tên đảo trưởng Nguyễn Đức Sinh nhìn các chiến sĩ ta súng lăm lăm trong tay chạy tới. Mặt hắn ủ rũ giơ tay lên trời. Đằng sau hắn, đồng bọn cũng làm đúng như vậy.

Bộ đội Đặc công hải quân Đoàn 126 trên đảo Trường Sa được giải phóng, ngày 29-4-1975. Ảnh tư liệu 

Sau 30 phút chiến đấu, Nguyễn Ngọc Quế đã trực tiếp chỉ huy Đại đội 1 giải phóng đảo Song Tử Tây, ta tiêu diệt 6 tên địch, bắt tên thiếu úy chỉ huy đảo cùng 33 tên lính, thu được 2 đại liên, 1 súng ĐKZ, 2 súng cối, 2 trung liên và nhiều vũ khí khác.

Sau trận đánh, Phân đội 1 do đồng chí Đỗ Văn Xuân, trợ lý tham mưu; đồng chí Trần Thanh Hải, Trợ  lý Chính trị, phụ trách ở lại chốt đảo, 2 phân đội còn lại lên tàu chờ lệnh. Song Tử Tây được quân ta giải phóng, hệ thống phòng thủ của địch ở quần đảo Trường Sa bị đe dọa. Địch vội vàng cho hai tàu chiến có số hiệu HQ16 và HQ402 từ Vũng Tàu ra, định phản kích chiếm lại đảo, nhưng do hoang mang trước những thất bại dồn dập của chúng trên chiến trường, cộng với sự bố phòng chặt chẽ của cán bộ, chiến sĩ Phân đội 1, bọn địch chỉ lảng vảng rồi quay về tăng cường cho lực lượng phòng thủ ở Nam Yết.

Trước tình hình đó, kế hoạch đánh các đảo khác tạm dừng lại. Biên đội tàu của Đoàn 125 được lệnh chở bộ đội Phân đội 2, Phân đội 3 (Đội 1) và số lính ngụy đầu hàng về Đà Nẵng.

Ngày 17-4, Biên đội tàu cập cảng Đà Nẵng.

Ngày 18 và 19-4, Bộ tư lệnh Hải quân họp rút kinh nghiệm trận đánh ở Song Tử Tây và lên kế hoạch cho các trận đánh tiếp theo. Bộ tư lệnh Hải quân nhận định: Do bị thất bại liên tiếp trên chiến trường, nên địch không có khả năng chi viện cho quần đảo Trường Sa bằng máy bay, tàu chiến, chúng đang cuống cuồng lo đối phó với sự tiến công như vũ bão của ta khắp nơi. Sau khi mất Song Tử Tây, lực lượng địch còn lại trên các đảo và trên tàu vô cùng hoang mang. Đây là thời cơ thuận lợi để ta giải phóng các đảo còn lại. Bộ tư lệnh Hải quân chủ trương: Sử dụng Tàu 673 và Tàu 641 của Đoàn 125 chở Phân đội 2, Phân đội 3 (Đội 1) và lực lượng đặc công Quân khu 5 đi giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết và Sinh Tồn. Nếu thời cơ thuận lợi thì giải phóng các đảo này trong cùng một đêm.

4 giờ ngày 21-4, biên đội tàu gồm hai chiếc được lệnh nhổ neo ra khơi. Tàu 673 và Tàu 641 hướng về phía Trường Sa.

17 giờ, khi biên đội tàu ta cách đảo Song Tử Tây 25 hải lý, tôi nhận được điện từ Sở chỉ huy: "Tuyệt đối giữ bí mật. Quan sát kỹ mục tiêu. Nếu có tàu địch đến đảo, cho lực lượng rút ra, chờ thời cơ mới đánh". 20 giờ 30 phút, tôi điện về Sở chỉ huy: "Tôi vào khó khăn, gặp khu trục, sau đó bị cạn nên trở về H.1 xin chỉ thị, lực lượng trên Tàu 641 đổ bộ lên H.3 (Sơn Ca)".

Sở chỉ huy đồng ý.

21 giờ, Tàu 641 áp sát đảo Sơn Ca.

21 giờ 30 phút, dưới sự chỉ huy của đồng chí Đỗ Viết Cường, lực lượng Phân đội 2 trên Tàu 641 đổ bộ vào đảo. Nhưng do ngược dòng nước chảy rất xiết, nhận thấy rằng các mũi đổ bộ khó vào được đảo nên chỉ huy trận đánh quyết định quay lại tàu.

Tàu 641 di chuyển lên hướng Tây Bắc, chọn vị trí đổ bộ thuận lợi hơn.

0 giờ 30 phút ngày 25-4, lực lượng ta tiến hành đổ bộ lần thứ hai.

2 giờ, các mũi bám được vào đảo. Đến giờ, các mũi tấn công của ta đồng loạt nổ súng. Bị đánh phủ đầu, địch rất hoang mang, lo sợ, thôi chống cự.

3 giờ ngày 25-4, ta làm chủ đảo Sơn Ca. Trận này, Phân đội 2 tiêu diệt và bắt sống 20 tên địch, thu nhiều súng đạn.

Cùng thời gian đó, Tàu 673 chở Phân đội 3 và một tổ hỏa lực Quân khu 5 tiếp cận đảo Nam Yết. Nhưng do mắc cạn, sợ không bảo đảm an toàn và không bảo đảm thời gian đổ bộ, phần vì khu vực này có tàu địch hoạt động, yếu tố bí mật không còn, nên Tàu 673 đành về phía Song Tử Tây, sau đó về phía đảo Sơn Ca chờ thời cơ.

Ngày 26-4, Tàu 641 được lệnh chở tù binh về Cam Ranh.

20 giờ 45 phút ngày 26-4, trinh sát của ta bắt được điện của địch lệnh cho quân của chúng rút khỏi Nam Yết. Sở chỉ huy lập tức thông báo cho tôi và chỉ thị: Khẩn trương cho lực lượng đổ bộ lên đảo Nam Yết, quyết không để một lực lượng nào khác lợi dụng cơ hội này chiếm đảo.

1 giờ 30 phút ngày 27-4, tôi cho Tàu 673 rời khu vực Sơn Ca, hướng về phía Nam Yết.

10 giờ 30 phút ngày 27-4, Tàu 673 đi vào vùng biển đảo Nam Yết. Thấy lực lượng ta, hai tàu địch đỗ gần đó liền nổ máy tháo chạy. Lực lượng Phân đội 3 trên Tàu 673 nhanh chóng đổ bộ chiếm lĩnh đảo.

11 giờ 30 phút ngày 27-4, ta làm chủ đảo Nam Yết. 11 giờ 30 phút ngày 28-4, quân ta làm chủ đảo Sinh Tồn. 9 giờ ngày 29-4, lực lượng ta đổ bộ lên đảo Trường Sa. 9 giờ 30 phút, cờ giải phóng tung bay trên đảo.

Hoàn thành nhiệm vụ giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Đoàn 126 cùng các lực lượng khác đã hoàn thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Quân ủy Trung ương giao cho Quân chủng Hải quân. Đây là chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, góp phần to lớn cùng quân dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa và những nhiệm vụ khác, tháng 9-1975, Đội 1 (Đoàn 126) lần thứ 3 được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân. Nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ trong đoàn được tặng thưởng huân chương các loại.

Thiếu tướng Mai Năng.

Thiếu tướng Mai Năng:  

- Tên thật là Tạ Văn Thiều, sinh năm 1930, tại làng Xuân Dương, xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng (nay là xã Nghi Dương, thành phố Hải Phòng); tham gia cách mạng năm 1945.

- Năm 1950, ông nhập ngũ, tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông là người chỉ huy Phân đội trinh sát tìm đường đánh vào sân bay Cát Bi, sau đó trực tiếp chỉ huy một mũi tấn công sân bay Cát Bi (7-3-1954) và được Bác Hồ trao tặng danh hiệu “Dũng sĩ Cát Bi”.

- Năm 1969, khi đang là Đội trưởng Đội 1, Đoàn Đặc công 126 Hải quân, được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

- Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông đã có công tham gia xây dựng lực lượng Đặc công Hải quân, nghiên cứu phát triển cách đánh mới độc đáo, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chỉ huy Đội 1 Đặc công đánh chìm và đánh hỏng 30 tàu đối phương (đơn vị 3 lần Đội được tuyên dương Anh hùng), tham gia chỉ huy Đoàn Đặc công 126 Hải quân đánh chìm nhiều tàu địch trên tuyến Cửa Việt- Đông Hà.

- Đất nước thống nhất, ông tiếp tục tham gia Chiến dịch bảo vệ biên giới Tây Nam, rồi Chiến dịch bảo vệ biên giới phía Bắc; sau đó giữ chức Tư lệnh Binh chủng Đặc công.

Ông được Đảng, Nhà nước trao tặng:

- Huân chương kháng chiến (1 hạng nhất, 1 hạng nhì),

- Huân chương Quân công (1 hạng nhì, 1 hạng ba),

- Huân chương Chiến công (1 hạng nhất, 1 hạng nhì).

- Được phong hàm thiếu tướng, Tư lệnh Binh chủng Đặc công năm 1992.