Dự thảo ghi nhận nền tảng kinh tế để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, với vị thế chưa từng có: Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn khoảng dưới 1,9% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều.
Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN, thứ 32 trên thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 gấp gần 25 lần sau ba thập kỷ; tuổi thọ trung bình tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên khoảng 74,7 tuổi năm 2025. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới. Chỉ số hạnh phúc theo xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2025 tăng 8 bậc so với năm 2024, lên thứ hạng 46/143 quốc gia (năm 2020 xếp thứ 83).
 |
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Dự thảo) thể hiện tầm nhìn mới về phát triển kinh tế. Ảnh minh họa: baochinhphu.vn
|
Đồng thời, Dự thảo cũng đã nhận diện đúng điểm yếu về năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế vẫn thấp; thể chế phát triển còn chậm; mạnh dạn đề ra mục tiêu cao, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp và chương trình hành động cụ thể để đạt được các mục tiêu: Phấn đấu tăng trưởng GDP bình quân cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên; GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 28% GDP; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt trên 55%.
Tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 8,5%/năm. Giảm tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP ở mức 1 - 1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%. Tổng tích lũy tài sản khoảng 35 - 36% GDP; tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng khoảng 61 - 62% GDP. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 40% GDP, trong đó tỷ lệ đầu tư công chiếm 20 - 22%. Tỷ lệ huy động nguồn ngân sách giai đoạn 2026 - 2030 đạt 18% GDP; bội chi ngân sách khoảng 5% GDP. Chỉ số phát triển con người (HDI) phấn đấu đạt khoảng 0,78; tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh đạt khoảng 75,5 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống còn dưới 20%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.
Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026 - 2030) duy trì mức giảm 1 - 1,5 điểm%/năm. Tỷ lệ che phủ rừng duy trì mức 42%; tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt khoảng 65 - 70%; lượng phát thải khí nhà kính giảm 8 - 9%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường đạt khoảng 98 - 100%; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia…
Đặc biệt, Dự thảo đã tạo làn gió tươi mới trong đột phá nhận thức chính trị của Đảng ta về kinh tế, bởi lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng không còn dùng từ thành phần kinh tế, mà chỉ dùng cụm từ “khu vực kinh tế”. Đồng thời, cũng lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đã chính thức khẳng định phải phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế; trong đó, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò “là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế” (nên bỏ chữ một); trong khi kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng…
Ngoài ra, Dự thảo cũng lần đầu tiên nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, định hướng; thể chế kinh tế là trọng tâm; thể chế trên các lĩnh vực khác là quan trọng. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị 3 cấp, chính quyền địa phương 2 cấp. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội, để thị trường thực sự có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ nguồn lực.
Xác lập mô hình tăng trưởng mới, nhấn mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ; cũng như nhấn mạnh quan điểm “phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm”, với trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất mới, phương thức, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới.
Những chỉ số, định hướng và mục tiêu mang tầm nhìn đầy táo bạo đó là đúng đắn và có tính khả thi, làm nức lòng người dân, củng cố niềm tin và sự kỳ vọng của người dân vào lời hứa của Đảng trong kỷ nguyên mới, với sự kiên định và nhiều quyết sách chiến lược mang tính đột phá cho phép vượt qua mọi thách thức truyền thống và phi truyền thống trong giai đoạn 2026 - 2030.
Tuy nhiên, Dự thảo cần tăng liên kết, để phần khoa học công nghệ trở thành “động lực xuyên tâm” của toàn bộ phần kinh tế và điều chỉnh thứ tự gần nhau hơn giữa: Phần IV - Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính với Phần VII - Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
Đồng thời, diễn đạt lại các nội dung định hướng phát triển kinh tế trong Phần IV theo hướng nhóm các nội dung liên quan theo từng nhóm tiêu đề tương ứng để tăng tính logic, mạch lạc, tập trung, tránh trùng lặp và dễ nắm bắt hơn, bao gồm các tiêu đề nhóm nội dung về:
- Phát triển lực lượng sản xuất mới và các mô hình, động lực và cơ chế quản lý mới
- Cơ cấu lại và hiện đại hóa các ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp và nông thôn
- Phát triển các khu vực, vùng và chuỗi cung ứng
- Phát triển kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế gắn với đảm bảo sự ổn định, tự chủ và an ninh kinh tế quốc gia.
- Những nội dung khác còn lại trong mục IV…
Ngoài ra, nên chuyển những nội dung “Đẩy nhanh tốc độ nâng cao chất lượng đô thị hóa bảo đảm kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị với phát triển các đô thị mới. Chú trọng mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD), khai thác hiệu quả không gian ngầm, nhất là tàu điện ngầm tại các đô thị lớn. Mở rộng các loại hình nhà ở, ưu tiên phát triển nhà ở xã hội” trong Phần IV để ghép vào nội dung mục VIII - Quản lý phát triển xã hội bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống nhân dân.
Dự thảo sẽ có độ sâu lý luận hơn khi làm rõ hơn nội hàm của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và định vị cụ thể hơn yêu cầu hệ sinh thái cần thiết nhằm hiện thực hóa vai trò động lực quan trọng nhất của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đồng thời, bổ sung những định hướng nội dung liên quan đến phát triển đồng bộ các thị trường và các chuỗi cung ứng; phát triển kinh tế đối ngoại gắn với tăng cường tính tự chủ và bảo đảm an ninh kinh tế; đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy luật và quy trình quản lý kinh tế thị trường; tôn trọng các cam kết và thông lệ tốt trong quản lý kinh tế quốc tế.
Cùng với đó, xác định ngành công nghệ chiến lược rõ hơn (ví dụ: Chip bán dẫn, tự động hóa, vật liệu tiên tiến, sinh học …), gắn với “phát triển doanh nghiệp ngành”, “chuỗi giá trị” và “thương hiệu quốc gia”. Nhấn mạnh và nhận diện rõ cơ chế đột phá cho việc chuyển từ “nền kinh tế tăng trưởng” sang “nền kinh tế chất lượng, xanh, số hóa, sáng tạo”; áp dụng thử nghiệm cơ chế đặc thù tại các địa bàn chiến lược và dự án quốc gia; bổ sung mục tiêu và giải pháp hỗ trợ phát triển SME về xuất khẩu, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số; hợp tác với doanh nghiệp lớn, tham gia chuỗi toàn cầu; tăng phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho địa phương và doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hợp tác. Bổ sung nội dung phát triển nhanh thị trường tín chỉ các bon và có chỉ tiêu về phát thải khí nhà kính, năng lượng sạch, năng suất trên đơn vị sử dụng năng lượng; nhấn mạnh cơ chế thu hút đầu tư xanh, ưu đãi cho công nghệ “thải thấp”, và cơ chế loại bỏ/ hạn chế đầu tư “thải cao”.
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Tiến tới Đại hội XIV của Đảng xem các tin, bài liên quan.