Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” vẫn mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, bởi qua đó đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; tinh thần quyết chiến, quyết thắng và biết đánh thắng bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sự mưu trí, sáng tạo của quân, dân miền Bắc, đặc biệt là Bộ đội Phòng không-Không quân... Đó chính là tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, được thể hiện rõ ở những vấn đề chủ yếu sau:

Trước hết, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân ủy Trung ương đã có nhãn quan chiến lược nhạy bén trong dự báo, tổ chức chuẩn bị mọi mặt để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ. Từ đầu năm 1965, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự báo về âm mưu, thủ đoạn leo thang và mở rộng chiến tranh của Mỹ. Đối với hậu phương miền Bắc, Đảng ta xác định: Trong khi đề cao khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến lớn miền Nam, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại đến một trình độ ác liệt gấp bội.

Lực lượng tự vệ Hà Nội chiến đấu bảo vệ mục tiêu trong Chiến dịch Phòng không Hà Nội-Hải Phòng, tháng 12-1972. Ảnh tư liệu 

Từ năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo chính xác rằng: Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian chuẩn bị...

Từ nhận định sáng suốt đó, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo mở các hội nghị phòng không nhân dân, xây dựng kế hoạch tác chiến phòng không, sơ tán, bảo vệ các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, kho tàng, bến bãi, trọng điểm giao thông... Lực lượng đánh máy bay và tàu chiến Mỹ mà nòng cốt là Quân chủng Phòng không-Không quân và Quân chủng Hải quân đã được tăng cường cả về con người và vũ khí, trang bị, chuẩn bị sẵn kế hoạch, hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng, tạo thế trận liên hoàn, vững chắc sẵn sàng đánh địch. Vì thế, khi quân Mỹ mở cuộc tập kích bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng đã bị lưới lửa phòng không nhiều tầng của quân và dân miền Bắc đánh bại, khiến cả thế giới kinh ngạc.

Trong cuộc đối đầu với lực lượng không quân mạnh hàng đầu thế giới của đế quốc Mỹ, quân và dân ta dù vũ khí, trang bị ít và kém hiện đại nhưng vẫn giành thắng lợi vang dội chính là nhờ chúng ta dám đánh, biết đánh và đã xây dựng, tổ chức được lực lượng, thế trận độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam; nhất là phát huy tối đa sức mạnh, hiệu quả của tác chiến phòng không.

Công tác xây dựng, tổ chức, bổ sung, phát triển lực lượng tác chiến phòng không đã có quá trình chuẩn bị và rèn luyện lâu dài, ngay từ khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, đầu năm 1965. Lực lượng cao xạ từ 12 trung đoàn và 14 tiểu đoàn phát triển thành 21 trung đoàn, 41 tiểu đoàn, hình thành mạng lưới phòng không tầm thấp và tầm trung mạnh. Đầu năm 1965, các đơn vị tên lửa phòng không được thành lập (Trung đoàn 236, Trung đoàn 238). Không quân cũng phát triển từ một trung đoàn lên 3 trung đoàn; Ra-đa phát triển từ 2 trung đoàn lên 4 trung đoàn. Thực hiện phương châm vừa huấn luyện, vừa chiến đấu, vừa rút kinh nghiệm, các lực lượng đã trưởng thành nhanh chóng, nhất là kỹ thuật chiến đấu và khả năng tác chiến hiệp đồng, thực sự là nòng cốt cho thế trận phòng không nhân dân. Nhờ sự chuẩn bị kỹ càng nên khi bước vào chiến dịch phòng không cuối năm 1972, quân, dân ta đã có lực lượng và thế trận chủ động, đánh trả không quân Mỹ hiệu quả.

Quá trình chiến đấu, với thế trận bố trí khoa học, hợp lý, các lực lượng của ta phối hợp nhịp nhàng, vừa tập trung được hỏa lực, vừa có thể đánh địch từ xa đến gần, ở tầng nào cũng có lực lượng tiêu diệt máy bay địch. Trong cuộc tập kích chiến lược đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc cuối năm 1972, đế quốc Mỹ đã sử dụng những phương tiện chiến đấu và vũ khí tối tân (máy bay B-52, bom điều khiển, máy tạo nhiễu...). Trong khi đó, vũ khí quân ta có chỉ tương đối hiện đại (máy bay MiG-21, tên lửa SAM-2, pháo phòng không cỡ nòng 100mm, ra-đa P-35...), thế nhưng nhờ sự mưu trí, sáng tạo, bố trí thế trận hợp lý và cách đánh hiệu quả nên vũ khí, trang bị của quân và dân ta đã phát huy tác dụng, tiêu diệt nhiều máy bay hiện đại của Mỹ, khiến cho đối phương bất ngờ, khiếp đảm và bại trận.

Để có được Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972, chúng ta không thể không nhắc đến sức mạnh từ tình đoàn kết, sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế và của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Thế nhưng, nhân tố quyết định làm nên chiến thắng chính là tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương, cùng với bản lĩnh kiên cường, mưu trí, sáng tạo, dám đánh và biết đánh thắng của quân và dân ta. Đó là bài học quý giá để chúng ta vận dụng, phát huy vào sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.