Sau khi ta tiến công giải phóng các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Ngãi và phần lớn Quảng Nam, hầu hết lực lượng còn lại của địch ở Quân khu 1 - Quân đoàn 1 rút về tập trung tại Quảng Đà (nay là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng) khiến nơi đây trở thành trung tâm quân sự lớn nhất ở miền Trung với lực lượng khoảng 75.000 quân, gồm: Sở Chỉ huy Quân đoàn 1 - Quân khu 1, Sư đoàn Bộ binh 3, Sư đoàn thủy quân lục chiến (có tàn quân của Lữ đoàn 147), tàn quân của các Sư đoàn Bộ binh 1 và 2, Sư đoàn Không quân 1 (279 máy bay, trong đó có 96 máy bay chiến đấu), Liên đoàn Biệt động quân 17, Thiết đoàn 11 và tàn quân của Thiết đoàn 20, 12 tiểu đoàn pháo binh (1 tiểu đoàn pháo 175 mm, 3 tiểu đoàn pháo 155mm, 8 tiểu đoàn pháo 105mm), 15 tiểu đoàn bảo an cùng một lực lượng lớn hải quân, cảnh sát, dân vệ và bộ máy hành chính ngụy quyền.

Nhanh, kịp thời, táo bạo, bất ngờ nhất nhưng chắc thắng

Với lực lượng đông đảo, cùng phương tiện chiến tranh hiện đại, địch tổ chức thành một căn cứ liên hợp hải - lục - không quân với 2 tuyến phòng thủ: Tuyến ngoại vi có Sư đoàn Thủy quân lục chiến, Sư đoàn Bộ binh 3 và một số đơn vị biệt động, bảo an; tuyến trong do lực lượng còn lại của Sư đoàn 1, một bộ phận của Sư đoàn 2 và các liên đoàn biệt động quân, các đơn vị địa phương quân đảm nhiệm.

 Quân giải phóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975. Ảnh tư liệu

Trước diễn biến mau lẹ trên chiến trường, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Mặt trận Quảng Đà (mật danh Mặt trận 475) nhằm tiêu diệt quân địch co cụm ở Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Đà. Bộ tư lệnh do đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh; đồng chí Chu Huy Mân - Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận. Cùng ngày, Bộ Tổng Tư lệnh truyền đạt chỉ thị cho lực lượng chủ lực Quân khu 5 tiến về phía Đà Nẵng, phối hợp với Quân đoàn 2 hình thành thế bao vây từ nhiều hướng, tiến công Đà Nẵng theo tình huống địch rút chạy, với phương châm: Nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất nhưng chắc thắng.

Bộ tư lệnh huy động lực lượng tham gia chiến dịch gồm: Quân đoàn 2 có: Sư đoàn 325, Sư đoàn 304 (đang phòng ngự tại Thượng Đức); Lữ đoàn Tăng - Thiết giáp 203 (2 tiểu đoàn và 1 đại đội); Lữ đoàn Pháo binh 164 (thiếu 1 tiểu đoàn); 3 trung đoàn pháo phòng không 243, 245, 284; Lữ đoàn Công binh 219; Quân khu 5 có: Sư đoàn Bộ binh 2 được tăng cường Trung đoàn 36, Trung đoàn Bộ binh 3 độc lập, Lữ đoàn Bộ binh 52, Trung đoàn Xe tăng 574; Trung đoàn Pháo binh 572, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn pháo phòng không, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn công binh; 3 tiểu đoàn và các đại đội địa phương, đặc công, biệt động, du kích của 2 tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam.

Để phối hợp tiến công địch chặt chẽ, nhịp nhàng trên nhiều hướng, Bộ tư lệnh Chiến dịch giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị: Quân đoàn 2 tiến công từ hướng Bắc và Tây Bắc; Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 9) tiến công từ hướng Tây Nam; lực lượng chủ lực Quân khu 5 tiến công từ hướng Nam và Đông Nam.

Hiệp đồng binh chủng quy mô lớn 

Ngày 26-3-1975, Chiến dịch Đà Nẵng mở màn. Đến ngày 28-3, ta đập tan toàn bộ hệ thống phòng ngự vòng ngoài của địch và triển khai lực lượng áp sát thành phố Đà Nẵng từ nhiều hướng; pháo binh triển khai trận địa khống chế sân bay, bến cảng và các mục tiêu quan trọng trong thành phố; nhân dân các xã ở ngoại thành nổi dậy giành chính quyền, bắt và gọi hàng hơn 2.000 quân địch đang chạy về Đà Nẵng. Trước nguy cơ bị bao vây tiêu diệt, Mỹ buộc phải lập cầu hàng không di tản cơ quan lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng về Sài Gòn (ngày 26-3) khiến tinh thần binh lính địch ở đây càng thêm rối loạn.

Quân đoàn 2 giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975. Ảnh Tư liệu  

Theo phương án đánh địch ở tư thế địch rút chạy, rạng sáng 29-3, ta sử dụng 30 pháo lớn của Quân đoàn 2 và Quân khu 5 bắn dồn dập vào Sở Chỉ huy Quân đoàn 1, sân bay Đà Nẵng, Nước Mặn, quân cảng Sơn Trà, cảng Mỹ Khê, sau đó bắn chuyển làn ra mép nước, chặn không cho tàu địch vào đón tàn quân rút chạy, tạo điều kiện cho các đơn vị tiến công vào Đà Nẵng. Đồng thời, xe tăng tiến công từ nhiều hướng, kịp thời chi viện cho các mũi bộ binh: Hướng Bắc theo Quốc lộ 1 đột phá qua đèo Hải Vân, chiếm kho xăng Liên Chiểu, thọc sâu vào Đà Nẵng ra bán đảo Sơn Trà, chiếm quân cảng (13 giờ 30 phút ngày 29-3); hướng Tây Bắc theo Quốc lộ 14 tiến công trong hành tiến, làm chủ Phước Tường, Hòa Khánh và Sở Chỉ huy Sư đoàn 3 của địch, sau đó phối hợp đánh chiếm đài phát thanh, tòa thị chính (9 giờ 30 phút ngày 29-3), phát triển ra bán đảo Sơn Trà; hướng Tây Nam đập tan địch ở Phú Hương, Đồng Lâm, truy kích về Ái Nghĩa, chiếm Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm và phối hợp đánh chiếm sân bay Đà Nẵng; hướng Nam đánh chiếm các khu vực Bà Rén, Duy Xuyên, Nam Phước, Vĩnh Điện rồi phát triển vào Đà Nẵng, chiếm Sở Chỉ huy Quân đoàn 1, Sư đoàn Không quân 1 và sân bay Đà Nẵng (12 giờ ngày 29-3); hướng Đông Nam làm chủ thị xã Hội An, khu Non Nước, căn cứ hải quân, phối hợp đánh chiếm sân bay Nước Mặn...

Đến 15 giờ ngày 29-3, ta làm chủ toàn bộ căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng - Sơn Trà, giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Đà Nẵng (từ ngày 26 đến 29-3-1975).

Chiến dịch Đà Nẵng là một chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn được tiến hành trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp rút, để lại nhiều bài học về nghệ thuật quân sự, đặc biệt là nghệ thuật nắm bắt thời cơ.

Suốt quá trình diễn biến chiến dịch, mặc dù Bộ tư lệnh Chiến dịch không có điều kiện trao đổi trực tiếp, nhưng được sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh cùng sự nhạy bén nắm bắt thời cơ của lãnh đạo, chỉ huy Quân khu 5 và Quân đoàn 2, các lực lượng của chiến dịch đã chủ động nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài, đưa lực lượng vào áp sát Đà Nẵng; sử dụng pháo binh khống chế các sân bay, bến cảng, tổ chức những binh đoàn thọc sâu, thực hành tiến công địch trong hành tiến với tốc độ cao; kết hợp chặt chẽ giữa bao vây, chia cắt đường bộ, đường không, đường biển của địch với đột phá, thọc sâu từ bên ngoài, kết hợp giữa tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với nổi dậy từ bên trong của nhân dân, đánh chiếm toàn bộ căn cứ liên hợp quân sự của địch ở Đà Nẵng.

Xe tăng Quân giải phóng tiến vào thành phố Đà Nẵng. Ảnh tư liệu 

Thắng lợi của Chiến dịch Đà Nẵng đã góp phần đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch, làm thay đổi hoàn toàn tương quan thế và lực trên chiến trường, tạo ra bước nhảy vọt về cục diện chiến tranh có lợi cho ta; gây cho địch tổn thất lớn về vật chất, kỹ thuật, tan rã lớn về tổ chức, suy sụp lớn về tinh thần; mở ra thời cơ thuận lợi cho ta thực hiện trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam.

Đại úy, ThS NGUYỄN NGỌC TOÁN - Viện Lịch sử Quân sự

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng xem các tin, bài liên quan.