Từ đầu tháng 5-1975, quân đội Campuchia Dân chủ đã đánh chiếm các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Hòn Tre thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trên đất liền, chúng khiêu khích bộ đội biên phòng ta, cho di dời cột mốc biên giới ở một số điểm thuộc các tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk Lắk... Đặc biệt, để tiến hành xâm lược Việt Nam chính quyền Pol Pot - Ieng Sary được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn đã tích cực chuẩn bị từ sớm. Chúng vừa tạo dư luận kích động hận thù giữa hai dân tộc, coi “Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù số 1”, vừa tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền theo kiểu quân sự hóa, phát triển nhanh chóng lực lượng.
Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam nhiều lần đề nghị chính quyền Campuchia Dân chủ thực hiện nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Nhưng lãnh đạo Nhà nước Campuchia Dân chủ đã “khước từ mọi đề nghị thương lượng, đàm phán hòa bình của Việt Nam”[1], liên tiếp đưa quân đội gây hấn, xâm lược lãnh thổ biên giới Tây Nam Việt Nam. Đây là hành động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc lập, thống nhất, kéo Việt Nam vào “cuộc chiến tranh bắt buộc” với chúng, vì “chúng ta phải đứng lên bảo vệ Tổ quốc, không còn con đường nào khác”[2]. Do vậy, song song với đấu tranh ngoại giao, hòa bình thương lượng, quán triệt và thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, mệnh lệnh chiến đấu Tiền phương Bộ Quốc phòng, quân và dân Việt Nam trên tuyến biên giới Tây Nam kiên quyết anh dũng đứng lên trừng trị bàn tay tội ác của quân đội Pol Pot, chặn đà tiến quân của chúng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Mặc dù tình hình biên giới Tây Nam diễn biến căng thẳng, nhưng ngày 14-12-1976, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định nhất quán quan điểm: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em, trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau”[3].
Bất chấp mọi nỗ lực chính trị, ngoại giao của Việt Nam, ngày 30-4-1977, quân đội Campuchia Dân chủ đồng loạt tiến công 13 đồn biên phòng, 14 xã trên tuyến biên giới thuộc tỉnh An Giang, chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam. Sau đó, chúng tiến công trên suốt chiều dài 40km lãnh thổ tỉnh Kiên Giang, nhiều lần bắn pháo vào thị trấn Tân Biên, thị xã Châu Đốc… Các cuộc tiến công và pháo kích của quân Pol Pot - Ieng Sary vào An Giang tính đến 19-5-1977 đã giết hại 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương, phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân… Việt Nam sử dụng 1 trung đoàn (Sư đoàn 330), 1 trung đoàn tàu thuyền và 2 tiểu đoàn địa phương An Giang đánh trả, diệt 300 quân Pol Pot - Ieng Sary, buộc quân đối phương rút về bên kia biên giới. Từ 25-9-1977, Pol Pot - Ieng Sary tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam; riêng ở 3 xã thuộc các huyện Tân Biên, Bến Cầu, quân Pol Pot - Ieng Sary đã tàn sát hơn 1.000 dân.
Trước diễn biến mới của cuộc chiến tranh, do ta chưa tổ chức được tuyến phòng thủ biên giới, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động của Bộ đánh lui các cuộc tiến công của quân Pol Pot - Ieng Sary ở nhiều khu vực trên biên giới, giành lại những khu vực bị lấn chiếm, sau đó lui về củng cố. Phát hiện Việt Nam đã lui quân về phía sau, ngày 15-11-1977, quân Pol Pot - Ieng Sary lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã Tây Ninh. Từ 5-12-1977 đến 5-1-1978, các Quân đoàn 4, 3 và Quân khu 7, 9 tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công trên các hướng đường 7, 1 và 2, truy kích quân Pol Pot - Ieng Sary sâu vào đất Campuchia 20-30km; đánh thiệt hại 5 sư đoàn, làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch.
Ngày 31-12-1977, tập đoàn cầm quyền Campuchia Dân chủ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, công khai đưa vấn đề chiến tranh biên giới giữa hai nước ra trước dư luận thế giới, vu khống quân đội Việt Nam “tiến công xâm lược Campuchia Dân chủ”. Trước hành động của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary, cùng ngày 31-12-1977, Chính phủ Việt Nam ra “Tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia”, nêu rõ lập trường và nguyên tắc của Việt Nam là: “Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình; đồng thời, luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Campuchia”[4]; đồng thời, vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary đối với nhân dân Việt Nam ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam. Tinh thần và thái độ thiện chí của Việt Nam đã được Chính phủ và nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình, công lý, cũng như dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ.
Từ đầu năm 1978, được nước ngoài hỗ trợ về vũ khí, trang bị và cố vấn quân sự, Pol Pot - Ieng Sary ráo riết chuẩn bị lực lượng, tập trung 13/18 sư đoàn sát biên giới Việt Nam tiến công lấn chiếm, bắn pháo vào những nơi đông dân cư ở sâu trong lãnh thổ của Việt Nam. Từ ngày 26-3-1978, các đơn vị Việt Nam chuyển sang tiến công, đẩy quân Pol Pot - Ieng Sary, buộc chúng phải lùi xa biên giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Tiếp đó, để hỗ trợ cho lực lượng cách mạng Campuchia phát triển, tạo thế cho hoạt động của ta vào mùa khô năm 1979, Việt Nam sử dụng Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, 2 sư đoàn (Quân khu 7) và 2 sư đoàn (Quân khu 5) mở tiếp đợt tiến công lớn (từ 14-6 đến 30-9-1978) trên các hướng Đường 1, Đường 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và Đường 19 kéo dài nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Do bị bất ngờ hoàn toàn về thời gian, quy mô và phương thức hoạt động của ta, quân Pol Pot rơi vào thế bị động, ngay ngày đầu đã bị ta đánh thiệt hại và tê liệt một số sư đoàn. Cuộc tiến công của Việt Nam đã hỗ trợ kịp thời cho lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông, buộc Pol Pot - Ieng Sary bị động đối phó trên cả 2 mặt trận biên giới và nội địa.
 |
Mặt trận Đoàn kết cứu nước Campuchia được khai sinh ngày 2-12-1978, tại Vùng giải phóng Snuol thuộc huyện Snuol, tỉnh Kratie, Campuchia. Ảnh: AKP
|
Vừa chiến đấu, Việt Nam vừa giúp những người Campuchia yêu nước xây dựng lực lượng cách mạng. Từ tháng 5 đến tháng 11-1978, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phát triển được 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo. Ngày 3-12-1978, Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia ở vùng giải phóng Snuol (Campuchia). Trước sự phát triển mới của phong trào cách mạng Campuchia và so sánh lực lượng trên toàn tuyến biên giới có lợi cho ta, trong hai ngày 6 và 7-12-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp và thông qua quyết tâm mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary, giành chính quyền về tay nhân dân. Triển khai kế hoạch tác chiến chiến lược đã được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua, ngày 17-12-1978, Tiền phương Bộ Quốc phòng hạ quyết tâm chiến đấu và giao nhiệm vụ cho các đơn vị thực hiện kế hoạch tiến công giải phóng Campuchia. Theo đó, hai Quân khu 5 và 7 đảm nhiệm tiến công giải phóng các tỉnh miền Đông Campuchia; các Quân đoàn 2, 3 và 4 tập trung tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch, hướng chủ yếu là Quân đoàn 4; tiến công giải phóng Phnom Penh bằng ba cánh quân do hai Quân đoàn 3, 4 và Quân khu 9 đảm nhiệm.
Phát hiện sự chuẩn bị của ta, ngày 23-12-1978, Pol Pot - Ieng Sary huy động 10/19 sư đoàn đang bố trí dọc biên giới mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam: 3 sư đoàn đánh vào Bến Sỏi nhằm chiếm Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh vào Bảy Núi (An Giang), 2 sư đoàn đánh vào Hà Tiên (Kiên Giang) và 1 sư đoàn đánh vào Trà Phô (Hà Tiên). Trước cuộc tiến công xâm lược trên toàn tuyến biên giới của kẻ thù và theo yêu cầu của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 23-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc tổng phản công - tiến công trên toàn tuyến biên giới. Trước sức ép mạnh về quân sự, ngày 26-12, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của địch bị phá vỡ, đến ngày 2-1-1979, ba cụm quân chủ lực của Pol Pot - Ieng Sary, mỗi cụm 5 sư đoàn, án ngữ các trục đường (1, 7 và 2) tiến về Phnom Penh cơ bản bị tiêu diệt và tan rã. Trong hai ngày 5 và 6-1-1979 trên tất cả các hướng, quân Pol Pot - Ieng Sary không cản được các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam truy kích và tiến sát Thủ đô Phnom Penh. Ngày 7-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng Phnom Penh. Ngày 8-1-1979, Hội đồng Nhân dân cách mạng Campuchia (Chính phủ Cộng hòa nhân dân Campuchia) được thành lập. Ngày 12-1-1979, nước Cộng hòa nhân dân Campuchia ra đời, nhanh chóng được các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước trong Phong trào Không liên kết công nhận, đã khẳng định tính hợp pháp của chính phủ đó, tuyên bố xoá bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của bọn Pol Pot - Ieng Sary, thiết lập chế độ Cộng hoà nhân dân Campuchia.
 |
Nhân dân Thủ đô Phnom Penh lưu luyến tiễn các chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, lên đường trở về Tổ quốc. Ảnh: TTXVN |
Trong cuộc tổng phản công và tiến công chiến lược bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, từ 23-12-1978 đến 17-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn Pol Pot - Ieng Sary, diệt 12.000 quân, bắt 8.800 quân, gọi hàng 3.200 quân và làm tan rã tại chỗ 44.000 quân; giải phóng hơn 3 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật quân sự của quân Pol Pot - Ieng Sary; đập tan bộ máy thống trị của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary từ trung ương đến cơ sở. Trong thời gian gần hai năm chiến tranh, quân Pol Pot - Ieng Sary giết hại và bắt hơn 30.0000 dân thường tại các xã biên giới của Việt Nam, 400.000 dân mất nhà cửa, hơn 3.000 nhà bị bỏ hoang, nhiều nhà thờ, trường học, chùa chiền bị đốt phá...[5].
Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ chính nghĩa. Thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam có ý nghĩa to lớn, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Sary, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự; tạo điều kiện khôi phục lại tình hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Ngài Hun Sen (hiện đang là Chủ tịch Thượng viện Campuchia) khi giữ chức Thủ tướng Campuchia đã khẳng định: “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết”[6].
--------------------
[1] Nôrôđôm Xihanúc, Từ cuộc chiến chống CIA đến người tù của Khơme Đỏ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 268.
[2] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 13: Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 149.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 618.
[4] Báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
[5] Bộ Quốc phòng, Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 361.
[6] Haris C. Mehta - Julie B. Mehta, Hun Sen - Nhân vật xuất chúng của Campuchia, (người dịch: Lê Minh Cẩn), Nxb Văn học, Hà Nội, 2008, tr. 155.
Thượng tá, TS TRẦN ANH TUẤN, Viện Lịch sử quân sự
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng xem các tin, bài liên quan.