Phùng Thị Hương Ly sinh năm 1991 ở Bắc Kạn. Năm 2013, cô xuất bản tập thơ đầu tay “Đi qua tôi thật chậm”, được giới chuyên môn nhận định là cây bút nhiều tiềm năng và hứa hẹn mang lại những nét tươi mới cho thơ tỉnh nhà, khu vực. Đúng 10 năm, cô mới xuất bản tập thơ thứ hai “Dưới vòm hoa đại khải”.

Tập thơ “Dưới vòm hoa đại khải”.      

Tập thơ gồm 31 bài, xoay quanh nhiều đề tài, từ chiến tranh, tình yêu, quê hương, nguồn cội đến phận số, tất cả đều được Hương Ly phác họa qua tập thơ này, dù ít ỏi về số lượng nhưng cũng vừa đủ hình tượng hóa việc cô muốn nói, muốn viết. Một trong những đề tài đậm nét nhất trong tập thơ của Hương Ly là chiến tranh cách mạng và người lính. Với một người trẻ sinh ra, lớn lên khi các cuộc chiến đã lùi xa như Hương Ly thì đây là đề tài rất khó. Nhưng những dòng thơ với cách nhìn, cách cảm của riêng Hương Ly lại cho ta góc rung động khác: Tiến về biên giới/ Gió sông Tiền ghi vào nhật ký/ Thuyền ghe đổ bóng mơ hồ/ Mỗi bước ta đi/ Chấp chới câu hò bến cũ ("Hành quân qua châu thổ"). Viết về chiến tranh nhưng thơ Hương Ly đôi khi nhẹ bâng tình tự, không sa vào tuyên truyền, cổ động mà đi vào lòng người, bày biện các vết thương, khơi dậy giấc mơ hạnh phúc, mưu cầu hòa bình. Chính điều này làm góc nhìn của Hương Ly trở nên mới hơn trong đề tài rất cũ, ta hãy nghe nhà thơ thủ thỉ: Những đêm côn trùng ri rỉ lòng núi/ Cha kể chúng con nghe câu chuyện dọc chiến hào/ Chuyện người cựu binh mất ngủ/ Hòa vào những đêm thanh lặng/ Đinh ninh phía trước mình là đồng đội/ Lẫn vào đoàn quân qua cánh rừng... ("Trên những hố bom").

Là người con dân tộc Tày, Phùng Thị Hương Ly sinh ra trên bản làng bốn bề núi đá, được ru bằng điệu “ứ noọng nòn” nên cái âm ba dân tộc, “quãng giọng Tày” được cô phổ vào tập thơ rất dịu dàng, đằm thắm: Em là cô gái Tày/ Chào đời giữa mùa trám đen trĩu ngọn cây/ Ngày ấy cha chạy ra đầu bản đón mặt trời/ Chạy ngược ra suối thấy nước vơi/ Chạy lên đỉnh đồi thấy cánh hoa vừa hé/ Cha cầm dao chặt ống bương về làm cơm lam/ Nấu canh thịt gà gừng nghệ/ Khói bếp hối hả bay về trời/ Mẹ ôm em gọi là Nhình-con gái ("Nói cùng anh"). Với giọng thơ chủ đạo là trần tình, chia sẻ, Hương Ly đã hồ hởi, vui buồn khi viết về quê hương, về văn hóa của dân tộc mình, chính điều này đã định danh Hương Ly với lối thơ riêng, không phải riêng về cách triển khai hay lối trần tình, mà riêng vì chính cô đã từ phông văn hóa của chính mình đi lên, đó là: Người chít khăn chàm qua mùa sương bay; Cái vía buộc ở cổ tay; Nhặt lá bùa/ Nhặt tiếng cười về giải thiêng cho núi; Hoa bjoóc mạ nở rưng rức trong thung; Về đi câu lượn slương/ Lòng này như hàng trăm kiến đốt...

Hương Ly đã cho độc giả thấy một nét thơ bản lĩnh. Thơ cô không thiên về tả cảnh, cảnh chỉ là cái cớ để tải cái tình ẩn sâu trong câu chữ, nhưng dù vui hay buồn, cô chỉ phảng phất, không sa đà, tuyệt vọng. Điều này được minh chứng qua rất nhiều câu “sáng” trong các bài thơ-những câu thơ không chỉ làm điểm nhấn cho đoạn, bài mà còn buộc người đọc phải dừng lại, chiêm nghiệm và triết lý với chính mình: Từ hạt thóc mở ra ý niệm/ Ta mắc cạn một vùng trời xa ngái; Một đời cây chon von núi đá/ Một đời người heo hắt bản xa; Tôi uống ký ức rồi/ Ký ức nằm trong cốc nước chơi vơi/ Những vết chân trùng phùng trên ngói đỏ/ Là lũ chim về tôi lại tưởng tôi...

“Dưới vòm hoa đại khải” là tập thơ khá thành công của Phùng Thị Hương Ly, thể hiện từng bước đi chín chắn của nhà thơ trẻ. Sau tập thơ, tôi tin rằng ở dưới vòm hoa đại khải sẽ có một giọng thơ như "Loài hoa chuối đỏ bốn mùa cháy miên man".

Nhà thơ TRẦN ĐỨC TÍN

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.