Một hiện tượng đặc biệt Văn Cao

Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mỹ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt và hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không có gì là ngoa ngôn, quá lời.

Văn Cao - người nghệ sĩ tài năng âm nhạc, hội họa, thơ ca bậc nhất của Việt Nam. Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN

Trước năm 1945, trong lĩnh vực âm nhạc, năm 16 tuổi, Văn Cao viết “Buồn tàn thu”, sau đó là các ca khúc lãng mạn, trữ tình như “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Thu cô liêu”, “Cung đàn xưa”… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, rồi “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”…; ông viết thơ, viết văn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy.

Về hội họa, năm 19 tuổi, ông dự học không liên tục trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam); năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý như “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”, nhất là bức tranh “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử”…

Những bản nhạc của Văn Cao như “Buồn tàn thu”, “Suối Mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”,... được in ra đều do ông trình bày bìa và rất gần với trường phái lập thể.

Năm 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh, bằng bài hát lừng danh “Tiến quân ca” cuối năm đó, Văn Cao đã có bước chuyển lớn lao từ phong cách lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách cách mạng - kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ.

Từ năm 1945 trở đi, ông viết “Bắc Sơn”, rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, “Công nhân Việt Nam”, “Chiến sĩ Việt Nam”, tiếp đó là “Làng tôi”, “Ngày mùa”, “Tiến về Hà Nội”, đặc biệt là ca khúc “Ca ngợi Hồ Chủ tịch” và "Trường ca Sông Lô"…

 Các đại biểu chiêm ngưỡng những tác phẩm hội họa của Văn Cao tại triển lãm trưng bày nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Văn Cao (15-11-1923/15-11-2023).

Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như “Sông Tuyến”, “Biển đêm”, “Hàng dừa xa”…; sáng tác nhạc phim cho phim truyện “Chị Dậu” (1980), tổ khúc giao hưởng phim tài liệu “Anh bộ đội Cụ Hồ” của Xưởng phim Quân đội nhân dân (nay là Điện ảnh Quân đội nhân dân)... Vì nhiều lý do, kể cả chiến tranh, những dời chuyển, dâu bể, rất nhiều sáng tác hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và được giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc và thơ ca của ông. Chỉ có thể nêu một số tác phẩm như “Dân công miền núi”, “Chợ vùng cao”, “Lớn lên trong kháng chiến”, “Thái Hà ấp đêm mưa”…

Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm nổi tiếng “Mùa xuân đầu tiên”…; trong hội họa là “Chân dung bà Băng”, “Cổng làng”, “Phố Nguyễn Du”, “Cây đàn đỏ”, “Cô gái và đàn dương cầm”… Ông vẽ hàng trăm bìa sách, hàng trăm bức minh họa, đồ họa Báo Văn nghệ. Trong thơ là “Ba biến khúc tuổi 65”, “Thời gian”, “Phố Phái”, “Những bó hoa”… Các bài thơ được tập hợp trong tập “Lá”, “Tuyển tập thơ Văn Cao”.

Khai phá, mở lối cho sự phát triển nghệ thuật Việt Nam

Chỉ cần lấy ngẫu nhiên các tác phẩm âm nhạc như “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Tiến quân ca”, “Sông Lô”, “Mùa xuân đầu tiên”… đã thấy đó là những bảo chứng cho dấu ấn khai phá, mở lối, vượt lên chính mình, đặt nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của nền tân nhạc và thơ ca Việt Nam, từ lãng mạn đến cách mạng - kháng chiến cho đến thời khắc rất sớm của thời kỳ đổi mới; của ca khúc, hành khúc và trường ca của nhạc, của thơ.

Tài năng hội họa của Văn Cao thể hiện đa chiều. 

Nhận định về sự nghiệp văn nghệ quý giá của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích “lãng du” qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca. Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba “miền” ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người đến sau.

Những sáng tác của Văn Cao, nhất là âm nhạc và thơ ca, tuy không dồi dào về số lượng nhưng tạo dấu ấn mạnh mẽ về chất lượng, có tác dụng khai mở, định hướng và đặt nền cho sự phát triển của đời sống văn nghệ Việt Nam hiện đại. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại.

Về hội họa, Tạ Tỵ - người gắn bó và đi đầu trong phong cách hội họa lập thể ở Việt Nam, đã khẳng định: Văn Cao là người rất sớm đưa trường phái lập thể vào hội họa Việt Nam. Và một số nhà nghiên cứu đã nói, không dừng lại ở đó, dường như ông còn thể hiện phong cách trừu tượng, siêu thực trong các sáng tác của mình.

Trong lĩnh vực thi ca, dù viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông thể hiện sự coi trọng tính tư tưởng và chất suy tư trong ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật của người cầm bút. Văn Cao đã nhận ra tính tư tưởng là vấn đề cốt yếu nhất để thơ có thể trường tồn theo thời gian và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Văn Cao đã tạo cho riêng mình một thế giới thơ bằng trí tưởng tượng phong phú và sự sắp đặt ngôn từ một cách tài hoa, đánh thức mọi giác quan của bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm. Đó là nỗi đau đớn khi chứng kiến những bi kịch chất chồng của cõi nhân sinh, của những kiếp đời nô lệ trong các bài thơ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, “Ngoại ô mùa đông 1946”, “Linh cầm tiến”, “Ly khách”...

 Văn Cao họa trên sách của mình và nhiều tác giả cùng thời tạo nên những tác phẩm nghệ thuật trường tồn với thời gian.

Đó còn là sự nhạy cảm, sự trải đời của người nghệ sĩ chân chính khiến Văn Cao lựa chọn và chấp nhận dấn thân trên hành trình nghệ thuật, dám cất lên tiếng nói của lòng mình trước sự tha hóa, sự băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người, cảnh báo sự xuất hiện nguy cơ đe dọa sự phát triển đất nước:

“Đất nước đang lên da lên thịt

 Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày

 Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải

 Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống

 Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng

 Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang

Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng

 Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người

 Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút

 Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men”

(Những người trên cửa biển)

Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ 20 nhiều biến động. Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, ám ảnh:

“Có tuổi thanh niên

Như cây mùa xuân mới mọc

 Bị tước dần vỏ non…”

Nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn; tình yêu thương và trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau, nỗi bất hạnh, luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ.

Bằng tài năng như là thiên bẩm, bằng sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã có những cống hiến to lớn đối với nền văn hóa, văn nghệ nước nhà ở cả ba lĩnh vực: Âm nhạc, thơ ca và hội họa. Ông được Nhà nước trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Độc lập hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng (quê hương ông), Nam Định, Huế, Đà Nẵng...

PGS, TS NGUYỄN THẾ KỶ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận và phê bình Văn học, nghệ thuật Trung ương

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.