Trụ cột lãnh đạo, cầm quyền

Để đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tiếp tục nắm lấy 4 trụ cột: 

Một là, Đảng là người lãnh đạo, người đầy tớ, “con nòi” của nhân dân, được nhân dân tin và giao trọng trách lãnh đạo đất nước, cầm quyền vì nhân dân và phụng sự Tổ quốc ngang tầm thời đại. Do đó, sự tiên phong về lý luận và văn hóa chính trị ngày càng xứng đáng là một phương pháp lãnh đạo, cầm quyền bằng trí tuệ, là nguồn năng lượng chính trị-đạo đức tinh thần của dân tộc mà Đảng là đại biểu. Vị thế lịch sử cao hay thấp của trọng trách lãnh đạo, cầm quyền thành hay bại của Đảng tùy thuộc trước hết vào tư duy, tầm nhìn, trình độ và mức độ thực thi trọng trách lịch sử này. Đây chính là trọng sự “cầm đạo” của Đảng.

Hai là, lãnh đạo bằng tư tưởng-cầm quyền bằng pháp quyền-tổ chức thực tiễn cách mạng bằng văn hóa. Đảng lãnh đạo, cầm quyền vững mạnh không chỉ mạnh ở quyền lực chính trị, quyền lực tư tưởng và quyền lực tổ chức mà thật sự ngang tầm ở văn hóa, trí tuệ cầm quyền. Đây là yêu cầu và đòi hỏi từ sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới chuyển trọng tâm từ cầm quyền hành chính sang lãnh đạo đất nước phát triển văn minh và tiến bộ trên nền tảng pháp quyền và đạo lý nhân văn. Đây chính là trọng sự “cầm cương” của Đảng.

 Ảnh minh họa: tuyenquang.gov.vn

Ba là, mọi chuyển động hiện thực, suy cho cùng, bắt đầu từ bộ máy với đội ngũ đảng viên, cán bộ tinh hoa và cơ chế vận hành phù hợp của hệ thống chính trị và xã hội. Đảng hóa thân trong toàn bộ hệ thống chính trị, quyết không phải vận hành bằng hành lang “mờ ảo” của cơ chế hành chính quan liêu hay đẳng cấp tôn ti, đặc quyền đặc lợi, đứng ngoài hệ thống chính trị, vô hình lâm vào những nguy cơ sinh tử của một đảng lãnh đạo, cầm quyền: Quan liêu, tham nhũng. Đây chính là trọng sự “cầm tướng” của Đảng.

Bốn là, Đảng chủ động đổi mới chính mình trước tiên về tầm nhìn, tư duy, phong cách, phương pháp để nâng tầm Đảng lãnh đạo, cầm quyền hiện đại và văn hóa, phát triển không ngừng vị thế, vai trò và trọng trách của mình là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” và đứa “con nòi” của dân tộc trước hết vì dân tộc và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Đó là những động lực xã hội sâu xa-văn hóa, giá trị, tâm thế dân tộc, niềm tin... - nguồn lực nội sinh phát triển-giữ vững ổn định chính trị trên nền móng đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội và sự ủng hộ của thế giới. Đây chính là trọng sự “cầm tâm” của Đảng.

Nói khái lược, mọi sự phát triển của đất nước phải thật sự xoay quanh địa vị và lợi ích của nhân dân thống nhất với vị thế và lợi ích của quốc gia-dân tộc, chứ không phải ngược lại được bảo đảm bằng pháp luật. Đó là nhân tố căn bản của bản chất toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo, cầm quyền mà phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải thực thi.

Ba trọng sự chủ yếu

Đổi mới tư duy, xác lập tầm nhìn chiến lược phát triển quốc gia, trên cơ sở dân chủ, kết tinh trong các quyết sách chính trị lãnh đạo, cầm quyền giữ vị thế quyết định phương thức lãnh đạo, cầm quyền. Theo đó, kiên định mục tiêu, phải linh hoạt phương pháp chủ động làm chủ đất nước và thích ứng với biến động toàn cầu.

Thứ nhất: Kiểm soát và cân bằng động quyền lực là nhân tố sinh tử.

Kiểm soát quyền lực là yêu cầu bất biến của các quyết sách về đường lối, bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt động của Đảng và trực tiếp đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây luôn là công việc trung tâm, tuy rất khó khăn nhưng là nhân tố sinh tử, thành bại của thể chế dân chủ trong việc cân bằng động quyền lực từ kinh tế, chính trị tới nội bộ Đảng và hệ thống chính trị trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.

Quyền lực nào cũng phải đo bằng trách nhiệm: Đổi mới và thực thi nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ-nguyên tắc căn bản quán xuyến toàn bộ việc hoạch định, xác quyết và thực thi đường lối chính trị lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bao gồm: Đường lối chính trị-đường lối tổ chức-đường lối cán bộ-đường lối thực thi, trên nền tảng đoàn kết thống nhất và cầu thị tiến bộ, tôn trọng và tin cậy nhau (giữa cấp trên với cấp dưới, giữa đảng viên với nhau...), với thái độ nâng niu và tôn trọng phản biện nội bộ một cách dân chủ và cầu thị.

Giải quyết hiệu quả khối mâu thuẫn giữa tình trạng nhân danh tập trung theo kiểu “đồng thuận tập thể” a dua, “đoàn kết giả tạo”, “dễ người dễ ta”; mặt khác, đổi mới cơ chế lãnh đạo thống nhất với phân cấp, phân quyền gắn với định rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể, phòng ngừa mọi biến thái của dân chủ: Dân chủ hình thức, dân chủ nửa vời hay dân chủ bắt buộc, làm biến dạng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Nói một cách khác, mở rộng dân chủ rộng rãi nhất, tôn trọng mọi ý kiến thảo luận dù có thể khác nhau, nhưng quyết sách phải tập trung cao nhất, hành động thống nhất tuyệt đối, quyền lực minh bạch nhất, trách nhiệm rõ ràng nhất, đo lường hiệu quả cụ thể nhất, với thái độ cầu thị tôn trọng và thương yêu nhau. 

Thứ hai: Bảo đảm mối quan hệ giữa Đảng-Nhà nước-nhân dân.

Trên nền tảng nguyên tắc tập trung dân chủ, tiếp tục đổi mới cơ chế vận hành mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo-Nhà nước quản lý-nhân dân làm chủ bằng hệ thống thể chế phù hợp, bảo đảm Đảng không bao biện, làm thay, lấn sân Nhà nước và ngược lại Đảng cũng không “khoán trắng”, buông lỏng lãnh đạo; đồng thời, phát huy vị thế, vai trò, chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp và của nhân dân.

Không ngừng hoàn thiện cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết cơ chế vận hành của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong giám sát đảng viên, cán bộ và kiểm soát quyền lực trên mọi phương diện của đời sống đất nước bằng kỷ luật và pháp luật, bằng pháp lý và đạo lý, thông qua các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Kiểm soát quyền lực toàn diện và chỉnh đốn đội ngũ đảng viên, cán bộ là hai phương diện căn bản mà Đảng cần nắm chặt trong lãnh đạo hệ thống chính trị.

Tập trung kiểm tra, kiểm soát, giám sát và thanh tra một cách dân chủ, chặt chẽ, cụ thể, phù hợp đối với quyền theo trách nhiệm trên nền tảng kỷ luật, kỷ cương của Đảng thống nhất với pháp luật của Nhà nước.

Thứ ba: Giữ vững rường mối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế.

Sức mạnh và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam nằm ở lòng dân đoàn kết. Đây là tiền đề chính trị-xã hội bất biến để Đảng phát triển xứng đáng với tầm vóc dân tộc. Mỗi bước phát triển của dân tộc dưới ngọn cờ của Đảng là mười bước nâng tầm vị thế và sức mạnh của Đảng. Và, đến lượt mình, dân tộc là cơ sở chính trị-xã hội của Đảng, là nguồn sống của Đảng, không ai, không gì có thể thay thế, bôi nhọ và ly khai được. Là “con nòi” của nhân dân, người sinh thành từ trong lòng dân tộc, hy sinh vì nhân dân nên Đảng càng thật sự xứng đáng là Đảng của dân tộc. Nếu xa rời dân tộc, nguy cơ Đảng sẽ tự vong.   

Đó là đạo lý Việt Nam. Đồng thời, phát huy phản biện, xem đây là thước đo của trình độ phát triển dân chủ và động lực bảo đảm tập trung sức mạnh đoàn kết thống nhất trong Đảng; mặt khác, phát huy không ngừng dân chủ trong toàn xã hội. Sự hài lòng của nhân dân là thước đo năng lực và uy tín lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đảng xứng đáng là mẫu mực của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm rường cột đại đoàn kết toàn dân tộc và dẫn dắt đất nước đoàn kết quốc tế.

Thước đo sức mạnh và hiệu quả phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng càng phải tỏa sáng đạo đức và văn minh, đoàn kết và thống nhất, trên nền móng pháp lý và đạo lý trước toàn xã hội và tỏa sáng thanh danh của Đảng trong thế giới, làm nên vị thế mới, sức mạnh mới và uy tín của đất nước.

(còn nữa)