Liên là cô bạn thân học cùng lớp phổ thông với tôi. Khi rời ghế nhà trường, năm 1969, Liên nhập ngũ vào Nhà máy Thông tin M1, Binh chủng Thông tin liên lạc. Tôi còn nhớ ngày 27-9-1969, Liên báo tin này cho tôi, chúng tôi bịn rịn chia tay nhau và hứa sẽ viết thư thường xuyên cho nhau. Tháng 8-1970, tôi lên đường ra trận, mang theo bao niềm thương nỗi nhớ gia đình, quê hương, với cả cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến với Liên cùng một niềm tiếc nuối.

Tác giả cùng vợ quây quần bên con cháu. Ảnh: KHÁNH AN 

Chuyện là, trước Tết Nguyên đán Canh Tuất (1970), bạn có viết thư mời tôi sang nhà chơi vào dịp Tết vì thời gian bạn được về nghỉ Tết không dài. Tối mồng 2 Tết, tôi sang nhà chúc Tết gia đình thì bạn đã đi xe tuyến lên đơn vị từ chiều. Vậy là lần này đi xa, không biết đến khi nào chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau?

Những năm cùng đồng đội làm nhiệm vụ quốc tế ở Nam Lào, qua những lá thư, chúng tôi vẫn biết tin nhau và gắn bó bằng một tình cảm thân thiết. Tháng 3-1973, sau khi hiệp định về chấm dứt chiến tranh, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào được ký kết, chúng tôi nhận được nhiều thư của gia đình và bạn bè từ hậu phương. Trong đó có một bức thư và một tấm ảnh khổ 3x4cm, phía sau có hàng chữ “Kim Liên-mùa hè 1972”.

“Em khao khát yêu thương như khao khát vun trồng/ Bất chấp mọi gian lao, em tin ngày đoàn tụ...”. Tôi trào dâng cảm xúc khi đọc được những dòng thơ ở cuối bức thư. Trước kia, ở bên Liên, tôi luôn thấy bối rối nhưng tràn ngập hạnh phúc. Tôi cũng chưa “giải mã” được đó là gì? Chưa bao giờ chúng tôi nói với nhau tiếng yêu. Nay, lời thơ hay lời tâm sự của Liên làm tình yêu trào dâng trong lồng ngực của tôi. Tôi nhận ra rằng, Liên là “một nửa” mà tôi còn thiếu.

Mối tình đầu đã là nguồn cổ vũ tinh thần mạnh mẽ cho tôi trên những chặng đường hành quân gian khổ. Bức ảnh chân dung của Liên luôn được tôi đặt trong túi áo quân phục, để Liên mãi bên tôi khi ra trận. Tình yêu của chúng tôi trải dài nhớ thương qua những bức thư viết vội và đã trở thành “tài sản chung” của cả đại đội. Đến mức, mỗi khi tôi có thư, ngoài phong bì đề: Hòm thư 674.208 IE42 là các đồng đội tôi lại đòi đọc chung. Ở nơi sinh tử, chẳng điều gì có thể giấu nhau được. Qua những trang thư, hầu hết đồng đội đều mong mỏi chúng tôi sớm đến được với nhau. Trong số ấy có người đồng đội thân thiết, cùng nhập ngũ, cùng vào chiến trường với tôi là Hoàng Mạnh Hùng. Thật tiếc là anh đã mất vào năm 2003. Những tình cảm quý báu, chân thành đó của người bạn gái phương xa cũng như sự quan tâm, vun vén của đồng đội đã trở thành nguồn động viên tinh thần, góp phần giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ suốt những năm tháng trong quân ngũ.

Mùa xuân Bính Thìn (1976), tôi được nghỉ phép về thăm gia đình và gặp lại Liên cũng đang được nghỉ phép. Những giây phút gặp nhau hồi hộp không nói nên lời, chỉ có ánh mắt yêu thương trìu mến trao nhau như muốn trao cả trái tim và cuộc đời. 4 ngày phép của Liên trôi qua, chúng tôi chia tay nhau với sự bịn rịn, lưu luyến. Đợt Tết Nguyên đán năm đó, trước khi trả phép, tôi đến nhà máy thăm Liên. Chúng tôi nhận được những lời chúc tốt đẹp của mọi người mừng chúng tôi sum họp, và chính nơi đây, chúng tôi đã kịp trao nhau những nụ hôn đầu với lời hứa sẽ cùng nhau đi trọn đường đời.

Năm 1980, khi Liên được chuyển công tác về Viện Kỹ thuật Công binh, Binh chủng Công binh thì cũng là lúc tôi được giải ngũ, trở về học tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Mùa xuân 1983, tôi và Liên đã có thêm tình nghĩa vợ chồng bên cạnh tình bạn, tình đồng đội và tình yêu.

Giờ đây, tuy cả hai đã vào tuổi xế chiều nhưng tình yêu của chúng tôi vẫn đằm thắm như thuở ban đầu. Các con đã yên bề gia thất nên chúng tôi dành cho nhau sự quan tâm, chia sẻ để bù đắp lại những tháng ngày xa cách, cũng là để làm gương cho con cháu trong việc giữ gìn lửa ấm hạnh phúc gia đình.

LÊ AN KHÁNH