Đảm đương nhiệm vụ trông giữ, nuôi dạy con giúp đồng đội yên tâm bám trụ, lao động sản xuất nơi núi rừng Tây Nguyên heo hút, các cô giáo đã vượt lên tất cả và dành hết tâm huyết vào công việc. Trải qua hàng thập kỷ, nhiều thế hệ con em cán bộ, công nhân Binh đoàn 15 đã trưởng thành trong vòng tay chăm sóc, yêu thương của đồng đội cha mẹ mình.

Khi màn đêm buông xuống

Gần 23 giờ, khi màn đêm và không gian tĩnh mịch đã bao trùm khắp các buôn, làng ở xã Ia Mơ, tỉnh Gia Lai thì cũng là lúc Nhà trẻ Đội Sản xuất số 1, Đoàn Kinh tế-Quốc phòng (KT-QP) 710 (Binh đoàn 15) bắt đầu nhộn nhịp. Ánh đèn xe, tiếng nói chuyện, tiếng trẻ khóc và những lời dỗ dành làm một góc làng K’Rông chợt tỉnh giấc. Hơn nửa năm nay và suốt hàng chục năm qua, cứ mỗi khi bắt đầu mùa cạo mủ cao su (thông thường từ tháng 5 đến hết tháng 12 hằng năm), hai cô Thái Thị Xoan và Kpă H’Mớt, giáo viên Nhà trẻ Đội Sản xuất số 1 lại trở lại với nhịp sinh học này. Đám trẻ nhỏ cũng đã quen với việc đến trường vào lúc nửa đêm nên dù dở giấc và có chút mếu máo khi sang tay cô, các cháu mau chóng chìm vào giấc ngủ ngon trong tiếng vỗ về, à ơi của mẹ Xoan, mẹ H’Mớt.

 Các cô giáo ở Nhà trẻ Đội Sản xuất số 1, Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 710, Binh đoàn 15 cho các cháu đi ngủ.

Cô giáo Thái Thị Xoan quê ở xã Vĩnh Tường, tỉnh Nghệ An, về công tác tại Đoàn KT-QP 710 được 15 năm và gắn bó với công việc trông nom, nuôi dạy trẻ từ đó tới nay. Cô cho biết, bố mẹ các cháu là công nhân Đội Sản xuất số 1, hầu hết đều từ tỉnh xa tới vùng đất này lập nghiệp rồi nên duyên vợ chồng. Mùa cạo mủ cao su, bố mẹ đi làm từ nửa đêm hôm trước tới khoảng 5 giờ chiều hôm sau mới đón nên các cháu chủ yếu ở với cô. 4 cô ở Nhà trẻ Đội Sản xuất số 1 thay phiên nhau trực 24/24 giờ để bất cứ khi nào bố mẹ cần gửi trẻ là có người đón. Nhà trẻ hiện đang trông 25 cháu, trong đó có 10-15 cháu được bố mẹ gửi từ đêm. “Cháu bé nhất hiện mới được 7 tháng tuổi. Ban đêm, chúng tôi phải dậy pha sữa cho bé uống rồi ru võng ngủ. Cũng có hôm các cháu quấy khóc, các cô phải thức suốt để trông. Nhưng trộm vía, các cháu đều ngoan, khỏe mạnh nên rất ít hôm như thế”, cô Xoan tâm sự.

Không phải bây giờ hay riêng Nhà trẻ Đội Sản xuất số 1, toàn bộ điểm trường thuộc các đội sản xuất ở Binh đoàn 15 đều trông trẻ đêm từ nhiều thập kỷ qua. Trung tá QNCN Chu Thị Quỳnh Phương, Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Hồng, Đoàn KT-QP 74 (Binh đoàn 15) theo bố mẹ từ Hà Tĩnh vào Gia Lai từ năm 1984, khi mới 3 tháng tuổi. Mẹ chị là giáo viên của nhóm trẻ con công nhân Đội Sản xuất số 4, Nông trường 703 (tiền thân của Đoàn KT-QP 74 hiện nay) nên những hôm mẹ trực đón trẻ đêm, chị và chị gái cũng được đưa đi theo. Cô giáo Phạm Thùy Dương, giáo viên Điểm trường Mầm non Hoa Hồng, Đội Sản xuất số 19, Đoàn KT-QP 74, năm nay 26 tuổi, vẫn nhớ được mẹ là giáo viên Điểm trường Mầm non Hoa Hồng, Đội Sản xuất số 1, đưa đến trường từ 2-3 giờ sáng để đón các bạn nhỏ... Chính những năm tháng ấy đã góp phần nuôi lớn ước mơ trở thành giáo viên mầm non của các cô sau này.

“Mình mà đi, không ai ở lại với các cháu”

Đã gần 40 năm trôi qua, Thiếu tá QNCN Lê Thị Khoảng (61 tuổi), nguyên Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Hồng vẫn nhớ rõ những ngày chân ướt chân ráo đặt chân đến Tây Nguyên. Tháng 2-1987, theo lời kêu gọi của chính quyền xã Đại Hợp, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, cô Khoảng gác lại công việc làm giáo viên mầm non ở quê nhà, vào Tây Nguyên làm kinh tế mới. Sau hai tháng thử việc (theo công nhân lên nương khai hoang trồng cao su), cô được điều sang giữ trẻ ở Đội Sản xuất số 2, Nông trường 703. Thời kỳ đó, mọi thứ đều kham khổ, thiếu thốn, nhưng thứ đáng sợ nhất là sốt rét. Có đợt bị sốt rét kéo dài rụng hết tóc, cô chỉ muốn bỏ về quê, nhưng lại thương lũ trẻ và nghĩ “mình mà đi, không ai ở lại với các cháu” nên cô quyết tâm ở lại.

Phụ huynh gửi con tại Nhà trẻ Đội Sản xuất số 1, Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 710, Binh đoàn 15 để đi cạo mủ cao su.

Để việc dạy trẻ thêm hiệu quả, các cô lấy lon sữa bò rửa sạch, mài nắp, dán giấy lại thành trống cơm cho trẻ lắc lắc chơi; lấy lá mít, lá chuối, lá dừa làm con nghé, con châu chấu, đồng hồ... cho các cháu. Dạy chữ, dạy toán, các cô cũng dùng lá, quả dán lên bảng... Hết lá, quả ở trường, các cô phải hái đến vườn nhà người dân nên nhiều khi bị trách mắng. Cô Lê Thị Khoảng nhớ lại: “Nhờ thế mà các cháu thích đi học hơn, tiếp thu được bài học, quên đi nỗi nhớ bố mẹ nên phụ huynh mới yên tâm đi làm. Thời đó, đất mới khai hoang nên màu mỡ lắm. Thế nên ngoài giờ làm, công nhân tranh thủ trồng lúa, lạc để tăng thu nhập, vì vậy, một số phụ huynh mải làm quên cả con ở lớp, các cô trông đến tận tối mới trả được hết trẻ. Tuy vậy, các cô vẫn cắt cử nhau ở lại trông các cháu để có thể lo được cả việc của mình”.

Do đặc thù công việc, cô giáo Thái Thị Xoan đành gửi hai con về Nghệ An nhờ ông bà chăm sóc. Thương con, nhớ con lắm nhưng cô lại nghĩ “các cháu ở đây cũng cần mình không kém” để át đi nỗi niềm riêng. Nhiều đêm nhìn lũ nhỏ ngủ say bên ánh đèn vàng, cô tự nhủ “coi như các con mình cũng đang nằm trong số đó”. Với cô, ngôi trường nhỏ nơi vùng biên không chỉ là nơi làm việc mà đã trở thành ngôi nhà thứ hai, nơi cô gửi trọn tình yêu thương. Nhiều cháu đã học cấp 1, cấp 2 vẫn được cô đón về điểm trường ngủ đêm. Cô Thái Thị Xoan chia sẻ: “Bố mẹ các cháu đi cạo mủ cả đêm, nhà thì vách gỗ, gió lùa tứ phía, nguy hiểm lắm! Vì thế, tôi động viên phụ huynh đưa con lên ngủ cùng các cô cho yên tâm. Có cháu ngủ cùng cô từ hồi mầm non đến giờ học cấp 2 vẫn bện hơi”.

Con còn nhỏ nên mỗi lần trực đêm, cô giáo Kpă H’Mớt phải đưa con theo. Một mình xoay xở giữa con và học sinh cũng nhiều vất vả, nhưng cô Kpă H’Mớt vẫn cố gắng khắc phục vì “thương các cháu và đồng đội đang miệt mài cạo mủ ngoài rừng cao su. Nghĩ đến việc mình góp phần giúp anh chị em yên tâm làm việc, tôi lại thấy ấm lòng và có thêm động lực”.

(còn nữa)