Thiếu người làm nghề
Khoa học nghiên cứu VHNT gồm 3 lĩnh vực: Lịch sử, lý luận và phê bình. Mỗi lĩnh vực có vai trò, nhiệm vụ khác nhau song cũng có khi giao thoa, bổ trợ cho nhau như phê bình muốn thuyết phục phải dựa vào nền tảng lý luận, viết lịch sử không thể bỏ qua việc đánh giá có tính phê bình.
Khoa học nghiên cứu VHNT hiện nay đang đối diện với nhiều khó khăn, nổi bật là sự thiếu vắng đội ngũ làm nghề chuyên nghiệp. Gần 20 năm qua, hai trường đại học sân khấu điện ảnh ở nước ta không tuyển sinh lĩnh vực lý luận phê bình (LLPB) sân khấu do không có người đăng ký. Gần 30 người được đào tạo LLPB sân khấu bài bản trước đó chủ yếu đi làm báo và không có nhiều người chuyên tâm làm nghề, viết các công trình nghiên cứu “nặng ký”. Nhiều chuyên ngành khác như điện ảnh, múa, âm nhạc, nhiếp ảnh... cũng lâm vào tình trạng tương tự.
Khá hơn là chuyên ngành văn học khi có một đội ngũ tương đối hùng hậu, lớp sau tiếp nối lớp trước. Điều này thể hiện rõ trong danh sách các thành viên Hội đồng LLPB VHNT Trung ương khóa V (2021-2026) vừa ra mắt mới đây, những thành viên Hội đồng làm công tác nghiên cứu văn học chiếm số lượng áp đảo.
 |
| Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương hằng năm tặng thưởng cho các công trình nghiên cứu chất lượng. Ảnh: THANH TÙNG |
Theo PGS, TS Nguyễn Hữu Sơn, nguyên Phó viện trưởng Viện Văn học: “Có nguyên nhân khách quan là văn học vẫn chiếm được sự quan tâm của đông đảo độc giả, do vậy nhu cầu cần được định hướng tiếp nhận của độc giả vẫn cao, “đất diễn” cho nhà nghiên cứu văn học vì thế không bị thu hẹp quá nhiều. Mặt khác, truyền thống đào tạo ngữ văn ở các trường đại học, cao đẳng rất mạnh, bài bản và sinh viên sau khi ra trường thường làm những công việc gần gũi với văn chương nên có điều kiện tiếp tục làm nghề”.
Các hội thảo, tọa đàm, nhất là do Hội đồng LLPB VHNT Trung ương tổ chức nhiều năm qua đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc “đốt đuốc” đi tìm người nghiên cứu VHNT, đó là: Nghiên cứu VHNT mất nhiều thời gian và công sức nhưng không thể nuôi sống người làm nghề; “không gian” để thể hiện sản phẩm nghiên cứu ngày càng bị thu hẹp, rõ nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng; chưa có môi trường khoa học, dân chủ, lành mạnh kích thích những người nghiên cứu tham gia vào đời sống VHNT...
Một khi thiếu người làm nghề, hệ lụy để lại lớn, tạo ra sự nhiễu loạn các hệ giá trị trong sáng tác và tiếp nhận tác phẩm VHNT. Dẫn đến nhiều tác phẩm VHNT xấu độc, phản văn hóa, không phù hợp với thuần phong mỹ tục được tung hô, ca ngợi. Công chúng thông thường, nhất là giới trẻ, không có hiểu biết chuyên môn về VHNT lúng túng trong tiếp nhận, bị thao túng hấp thụ những tác phẩm VHNT thiếu lành mạnh, ảnh hưởng đến nhân cách, hành vi.
Ba đột phá vực dậy nghiên cứu văn học, nghệ thuật
Kết quả từ các hội thảo, tọa đàm và những nghiên cứu chuyên sâu chỉ ra 3 giải pháp đột phá để vực dậy đời sống nghiên cứu VHNT đó là: Đào tạo, chăm lo nguồn nhân lực; cơ chế hỗ trợ với người làm nghề; tạo dựng môi trường hoạt động lành mạnh nghiên cứu VHNT.
Trong nhiệm kỳ mới, Hội đồng LLPB VHNT Trung ương đề ra nhiều chương trình, nhiệm vụ quan trọng: Tiếp tục công tác bồi dưỡng, đào tạo ngắn hạn đội ngũ trực tiếp liên quan đến quản lý, nghiên cứu VHNT; hỗ trợ xuất bản các công trình nghiên cứu; nâng cao chất lượng tặng thưởng; tổ chức nhiều hội thảo lớn có tính tổng kết lý luận sâu sắc...
Có thể nói, Hội đồng đang gánh vác rất nhiều công việc lớn, có tác động tích cực đối với đời sống nghiên cứu VHNT, quan trọng nhất là khuyến khích sự tự ý thức trách nhiệm, vai trò và đam mê của những người làm nghề. Song nhiều giải pháp Hội đồng LLPB VHNT Trung ương không thể trực tiếp giải quyết mà chỉ có thể tham mưu tư vấn chính sách.
 |
| Hội thảo về xây dựng hệ giá trị văn học, nghệ thuật Việt Nam do Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức năm 2020. Ảnh: THANH TÙNG |
Đột phá thứ nhất là đào tạo, chăm lo nguồn nhân lực. Có ý kiến cho rằng cần miễn học phí, trao học bổng, hỗ trợ sinh viên nghiên cứu VHNT. Điều đó nếu được thực hiện là rất tốt nhưng sự hỗ trợ cũng chỉ là 4-5 năm học đại học, quãng thời gian hàng chục năm sau, người ta sống bằng gì nếu chuyên tâm làm nghề trong thời buổi vật chất lên ngôi như hiện nay? Điển hình như đào tạo nghiên cứu kiến trúc, nhiều người trẻ học xong đi làm nghề thiết kế nội thất, làm công trình, dự án.
Ở các ngành khác cũng vậy, không ai dám chắc trong số sinh viên đang theo học nghiên cứu VHNT, sau khi tốt nghiệp có đủ đam mê, quyết tâm để đi làm đúng nghề. TS Đỗ Thị Thu Thủy, Trưởng khoa Viết văn, Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho rằng: “Đóng góp lớn nhất và trực tiếp cho nghiên cứu VHNT hiện nay vẫn là đội ngũ đang công tác ở các cơ quan tham mưu, quản lý VHNT, viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan báo chí, xuất bản...
Tuy nhiên có một số người làm việc theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp về”; do vậy, cần phải tuyển lựa thật tốt đầu vào ở những cơ quan nói trên, đồng thời tập trung nguồn lực đầu tư cho những đối tượng này vì họ có chuyên môn và thực sự muốn gắn bó làm nghề nghiên cứu VHNT. Quan trọng nhất là giữ được “lửa” đam mê với nghề thì dù công tác ở đâu, người làm nghiên cứu VHNT cũng sẽ có ý thức tự nâng cao trình độ của mình. Đây là yếu tố quyết định tạo nên những nhà nghiên cứu có tâm và tầm”.
Cơ chế hỗ trợ với người làm nghề nghiên cứu VHNT gồm rất nhiều phương cách, trọng tâm vẫn là câu chuyện kinh phí. Song vấn đề không phải là kinh phí nhiều hay ít mà là đầu tư thế nào, cho đối tượng nào? Hiện nay ngân sách nhà nước đầu tư cho một đề tài nghiên cứu VHNT cấp bộ từ 200 đến 450 triệu đồng. Song một số đề tài sau khi được nghiệm thu phải “đắp chiếu” do chất lượng kém, không dám xuất bản để phổ biến.
Trong khi đó, có những nhà nghiên cứu triển vọng như Vũ Hiệp (sinh năm 1982) đã xuất bản 5 công trình nghiên cứu kiến trúc và mỹ thuật chất lượng rất cao, lại phải đi xin tài trợ bên ngoài để xuất bản. Cho nên có ý kiến cho rằng cần tiến hành đấu thầu dự án, đề tài nghiên cứu VHNT. Kinh nghiệm đã có khi Nhà xuất bản Hà Nội được giao chủ trì xây dựng tủ sách “1.000 năm Thăng Long-Hà Nội”. Mỗi đề tài thường chỉ hơn 100 triệu đồng, chủ biên chịu trách nhiệm và toàn quyền chọn nhân sự.
Cơ quan chủ quản chỉ theo dõi tiến độ, lập hội đồng nghiệm thu và yêu cầu chỉnh sửa cho đến khi xuất bản được thì thôi. Ai không hoàn thành thì phải trả lại tiền. Nếu cách làm được triển khai rộng rãi, những nhà nghiên cứu “học thật”, tâm huyết như Vũ Hiệp sẽ chuyên tâm làm nghiên cứu thay vì thỉnh thoảng phải nhận thêm công trình, dự án kiến trúc bên ngoài để “nuôi” công việc làm khoa học.
Cuối cùng là câu chuyện môi trường hoạt động của nghiên cứu VHNT, phải do chính các nhà nghiên cứu VHNT tự giải quyết. Do tác động của cơ chế thị trường, không ít cá nhân, tổ chức làm công việc sáng tạo bạo chi cho việc quảng cáo, truyền thông tác phẩm VHNT, hình ảnh văn nghệ sĩ.
Tâm lý ai cũng thích khen, góp ý mang tính xây dựng thôi đã bị “lườm nguýt”, chứ đừng nói chuyện chê bai, phê phán. Cho nên nhiều nhà nghiên cứu VHNT rất ngại góp ý, tham gia tranh luận bởi lợi ích thì chẳng thấy đâu, còn vớ phiền phức, đặc biệt từ các “fan cuồng”.
Song thiết nghĩ đã là nhà nghiên cứu VHNT thì cần tham gia đời sống VHNT không phải để gây dựng tên tuổi cá nhân mà quan trọng là giúp ích cho công chúng không có chuyên môn hiểu được giá trị chân, thiện, mỹ của VHNT; đồng hành với giới sáng tạo để thêm nhiều tác phẩm VHNT mới mẻ, vị nhân sinh.
TRẦN HOÀNG HOÀNG