Qua nghiên cứu lịch sử truyền thống Quân đội, Quân đoàn 1, trao đổi, trò chuyện với lãnh đạo, chỉ huy, cựu chiến binh của Quân đoàn, Báo Quân đội nhân dân phản ánh những chiến công tiêu biểu của Quân đoàn 1 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngay sau khi Quân đoàn 1 thành lập (24-10-1973), Đảng ủy, Bộ tư lệnh (BTL) Quân đoàn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương ổn định tổ chức. Nhanh chóng đưa Quân đoàn vào hoạt động, chuẩn bị lực lượng tốt nhất cho chiến lược của cách mạng miền Nam.
Quân đoàn chủ lực tạo sức đột kích lớn
Trao đổi với chúng tôi về truyền thống của Quân đoàn 1, Thiếu tướng Trương Mạnh Dũng, Tư lệnh Quân đoàn 1; Thiếu tướng Nguyễn Đức Hưng, Chính ủy Quân đoàn 1, dành khá nhiều thời gian nói về sự ra đời của Quân đoàn. Qua câu chuyện kể của đồng chí Tư lệnh, đồng chí Chính ủy Quân đoàn và nghiên cứu lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta, lịch sử Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, lịch sử truyền thống Quân đoàn 1, chúng tôi nhận thấy: Thành lập Quân đoàn 1 là nét son trong tổ chức bố trí, sử dụng lực lượng của Quân đội ta.
Ngược dòng lịch sử, ngay sau khi Hiệp định Paris (năm 1973) được ký kết, đế quốc Mỹ tiếp tục duy trì một bộ phận quân Mỹ ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời đốc thúc chính quyền ngụy Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định Paris.
 |
Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, thay mặt Quân ủy Trung ương phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc thành lập Đảng bộ Quân đoàn 1, ngày 4-11-1973. Ảnh tư liệu. |
Trước tình hình trên, ngày 15-10-1973, Quân ủy Trung ương (QUTƯ) họp, thống nhất đề nghị Bộ Chính trị cho thành lập một số quân đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc phòng. Theo đề nghị của QUTƯ và Bộ Quốc phòng, tháng 10-1973, Bộ Chính trị đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực. Chấp hành nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 24-10-1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư QUTƯ, Phó thủ tướng Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 142/QĐ-QP thành lập Quân đoàn 1. Theo Quyết định của Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức của Quân đoàn gồm: BTL Quân đoàn. 3 cơ quan Quân đoàn: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần. Các đơn vị: Sư đoàn Bộ binh 308, Sư đoàn Bộ binh 312, Sư đoàn Bộ binh 320B, Sư đoàn Phòng không 367, Lữ đoàn Xe tăng thiết giáp 202, Lữ đoàn Pháo binh 45, Lữ đoàn Công binh 299 và Trung đoàn Thông tin 140. Nhận thức rõ vị trí, chức năng đặc biệt quan trọng và nhiệm vụ của binh đoàn chủ lực, cơ động chiến lược đầu tiên của QĐND Việt Nam, Bộ Chính trị và QUTƯ, Bộ Quốc phòng đã tập trung cho Quân đoàn những tướng lĩnh, cán bộ trung-cao cấp dày dạn kinh nghiệm chiến đấu như: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, kiêm Tư lệnh Quân đoàn; Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, kiêm Chính ủy Quân đoàn.
Trước đó, để chuẩn bị cho sự ra đời chính thức về mặt tổ chức của Quân đoàn 1, thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, ngày 22-10-1973, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 2124/NQ-NS-TƯ thành lập Đảng bộ Quân đoàn 1; đồng thời, chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ (Đảng ủy) Quân đoàn gồm 7 ủy viên chính thức. Đồng chí Lê Quang Hòa được cử làm Bí thư, đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Hoàng Minh Thi làm Phó bí thư.
Ngày 4-11-1973, QUTƯ triệu tập hội nghị Đảng ủy Quân đoàn lần thứ nhất tại nhà số 28 phố Cửa Đông, Hà Nội. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam dự và chỉ đạo hội nghị. Thay mặt Bộ Chính trị, QUTƯ, Thượng tướng Văn Tiến Dũng công bố Quyết định thành lập Quân đoàn 1, Quyết định thành lập Đảng bộ Quân đoàn, đồng thời yêu cầu Quân đoàn khẩn trương tập hợp quân, ổn định tổ chức các cơ quan, đơn vị; xác định vị trí đứng chân của các đơn vị trong Quân đoàn, đặc biệt là vị trí của BTL và các cơ quan.
Ngay sau đó, đoàn cán bộ các cơ quan Quân đoàn dưới sự chỉ huy của Đại tá Hoàng Đan, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn đã tới các khu vực Tam Điệp, Nho Quan (Ninh Bình), Yên Thủy (Hòa Bình), Thạch Thành, Cẩm Thủy (Thanh Hóa) để tìm một địa điểm đóng quân của BTL và cơ quan Quân đoàn hội đủ những tiêu chuẩn cơ bản. Sau khi nghe đoàn công tác báo cáo kết quả khảo sát, phân tích thuận lợi, khó khăn cụ thể của từng vị trí, Đảng ủy, BTL Quân đoàn chọn khu vực Tam Điệp để đặt sở chỉ huy Quân đoàn. Sự lựa chọn này của Quân đoàn 1 nhanh chóng được Bộ Quốc phòng phê chuẩn.
Mục tiêu xuyên suốt
Nói tới công tác xây dựng Đảng bộ Quân đoàn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thiếu tướng Nguyễn Đức Hưng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân đoàn 1 rất tâm đắc về 3 yêu cầu, 3 khâu then chốt được Hội nghị Đảng ủy Quân đoàn lần thứ hai xác định. Những vấn đề này đến nay Quân đoàn 1 vẫn đang phấn đấu thực hiện.
Hội nghị Đảng ủy Quân đoàn lần thứ hai được tiến hành vào ngày 6-1-1974. Hội nghị cho rằng, các đơn vị thuộc Quân đoàn đều là những đơn vị có bề dày truyền thống và kinh nghiệm chiến đấu, huấn luyện và công tác. Tuy nhiên, do mới thành lập nên Quân đoàn còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trong Quân đoàn vẫn còn có những hạn chế nhất định. Bên cạnh mặt mạnh là đã trải qua chiến đấu nhưng đại đa số cán bộ của Quân đoàn chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản, đúng cương vị; đội ngũ cán bộ cơ sở chưa đủ số lượng, trình độ năng lực không đồng đều và hạn chế so với yêu cầu, lề lối tác phong công tác giữa các đơn vị và cơ quan, giữa các ngành chưa thống nhất.
Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, Đảng ủy đề ra 3 yêu cầu để toàn Quân đoàn phấn đấu: “Một là, Quân đoàn 1 là một binh đoàn chiến dịch cơ động, thường được nhận nhiệm vụ trên hướng chủ yếu của chiến dịch. Đối tượng trước mắt của Quân đoàn là quân ngụy Sài Gòn, có không quân và hải quân Mỹ chi viện... Trong chiến đấu, Quân đoàn phải tiêu diệt từng sư đoàn địch, thực hiện tiêu diệt lớn về chiến dịch, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường. Hai là, Quân đoàn 1 là một tổ chức binh chủng hợp thành quy mô lớn đầu tiên của Quân đội ta, yêu cầu tập trung thống nhất cao. Để phát huy sức mạnh tổng hợp, phải xây dựng Quân đoàn chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao nhất và hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho. Ba là, Quân đoàn 1 là một binh đoàn chủ lực cơ động, nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn là huấn luyện và chiến đấu, song dù thời bình hay thời chiến, Quân đoàn cũng phải tham gia làm kinh tế. Trước mắt cần ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tự túc một phần lương thực, thực phẩm, giảm bớt sự đóng góp của nhân dân, tích cực góp phần xây dựng kinh tế, củng cố hậu phương”.
Căn cứ vào 3 yêu cầu trên, Đảng ủy đề ra mục tiêu phấn đấu cho Quân đoàn: “Ra sức phát huy những thuận lợi đã có, kiên quyết khắc phục khó khăn, khẩn trương xây dựng Quân đoàn chính quy, hiện đại, có sức chiến đấu cao, sức đột kích mạnh, sức cơ động lớn, sẵn sàng chiến đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ trên giao. Phấn đấu đến hết năm 1974, khả năng tác chiến được nâng lên một bước và năm 1975, khả năng chiến đấu quy mô toàn Quân đoàn hoàn chỉnh hơn”.
Đảng ủy Quân đoàn cũng chỉ rõ: Trong khi thực hiện mục tiêu trên, cần nắm vững xây dựng Quân đoàn một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; về huấn luyện và cơ sở vật chất kỹ thuật, trong đó lấy xây dựng chính trị tư tưởng làm cơ sở, lấy huấn luyện làm trung tâm, lấy xây dựng cơ sở vật chất là hết sức quan trọng. Để làm được điều này, Đảng ủy xác định 3 khâu then chốt trong lãnh đạo để tạo nên sự chuyển biến rõ rệt: “Một là, xây dựng đơn vị cơ sở mạnh, vì đây là tổ chức chiến đấu cơ bản của Quân đội ta. Chú trọng các đơn vị trực thuộc là đơn vị mới thành lập. Hai là, xây dựng trung đoàn (lữ đoàn) mạnh, vì đó là đơn vị chiến thuật cơ bản. Ba là, xây dựng cơ quan mạnh, trước hết là cơ quan Quân đoàn và sư đoàn”.
Hội nghị Đảng ủy Quân đoàn lần thứ hai là một sự kiện quan trọng, có ý nghĩa lịch sử của Quân đoàn. Ở hội nghị lần thứ hai, Đảng ủy Quân đoàn đã xây dựng được một định hướng chính trị xây dựng Quân đoàn tương đối hoàn chỉnh và đúng đắn. Đây là cơ sở, là điều kiện quyết định, tác động sâu sắc đến quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đoàn.
(còn nữa)
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.
QUANG THẮNG - HÀ TRƯỜNG