Qua trinh sát nhận thấy, giữa các căn cứ, các khu chiếm đóng của địch thường có khoảng cách, ta có điều kiện luồn sâu để bao vây tiêu diệt địch. Trên cơ sở đó, ta xác định, cần phải hành quân nhanh, bao vây chặt, truy kích mạnh, tiêu diệt gọn khi chúng rút chạy; chủ động sử dụng lực lượng thọc sâu, luồn sâu, chia cắt, vu hồi không cho chúng chi viện lẫn nhau.

Trong đợt 1 của Chiến dịch Tây Bắc năm 1952, Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) làm lực lượng chia cắt địch ở Phù Yên, chặn đường rút lui của địch từ Nghĩa Lộ (Yên Bái) về Sơn La và từ Sơn La lên ứng cứu cho Nghĩa Lộ (đây vừa là hướng thứ yếu vừa là mũi thọc sâu của chiến dịch). Trên hướng chủ yếu, ta sử dụng Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316) và Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) đánh mở thông Đường 13 cho lực lượng chủ yếu của Đại đoàn 308 luồn sâu vào khu vực Nghĩa Lộ, Gia Hội, Khâu Vác để đánh trận then chốt. Trận này, ta tiêu diệt toàn bộ sở chỉ huy Phân khu Nghĩa Lộ với gần 400 tên địch, bắt 177 tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Quân ta vượt sông Đà, chọc thủng tuyến phòng ngự của địch trong Chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Ảnh tư liệu 

Phối hợp với hoạt động nghi binh trên hướng chính, ta sử dụng Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) tăng cường cho hướng Quỳnh Nhai thành lập Mặt trận Y13, tổ chức lực lượng thọc sâu vào phía Nam Lai Châu. Đây trở thành mũi thọc sâu, vu hồi rất lợi hại, có tác dụng lớn; không những tạo điều kiện cho chủ lực trên hướng chính cơ động vào tiến công, mà còn chớp được thời cơ do lực lượng trên hướng chính tạo ra, phát triển rất nhanh và mạnh. Quyết định sáng suốt của Bộ chỉ huy chiến dịch tăng cường thêm lực lượng cho cánh quân thọc sâu và hoạt động sớm (trước khi ta mở đợt 2 chiến dịch), là bước phát triển về nghệ thuật chiến dịch của Quân đội ta.

Giữa lúc trên chiến trường Tây Bắc bộ đội ta đang giành được những thắng lợi quan trọng thì ngày 28-10, quân Pháp mở cuộc hành quân Lorraine đánh lên vùng tự do Phú Thọ nhằm cắt đứt đường tiếp tế lương thực, vũ khí của ta, để phá kế hoạch của ta ở mặt trận chính. Giữ vững quyết tâm thực hiện đợt 2 chiến dịch, Bộ chỉ huy chủ trương tập trung binh lực ở Tây Bắc, chỉ điều Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) về phối hợp với lực lượng tại chỗ đánh địch ở Phú Thọ và đã đánh bại cuộc hành quân Lorraine, tiêu biểu là trận đánh địch rút chạy ở Chân Mộng, Trạm Thản, tiêu diệt và bắt hơn 400 tên địch, phá hủy 44 xe cơ giới, trong đó có 17 xe tăng, xe bọc thép, thu nhiều quân trang, quân dụng của địch (theo cuốn Lịch sử chiến thuật Quân đội nhân dân Việt Nam 1944-1975).

Trên hướng thọc sâu ở Đông Nam Lai Châu, chỉ với lực lượng 4 tiểu đoàn và một số đơn vị vũ trang địa phương, ta đã khéo kết hợp giữa tiến công quân sự với làm công tác địch vận. Trong cuốn “Chiến dịch Tây Bắc-Thu Đông 1952” đã nêu rõ: Mặt trận đã tiến công kiên quyết, mãnh liệt vào hệ thống phòng ngự của địch với quân số đông hơn gấp nhiều lần, trên địa bàn rộng, tiêu diệt 400 tên địch, bắt 1.750 tên, thu nhiều quân trang, quân dụng, giải phóng 6 huyện là Than Uyên, Quỳnh Nhai, Tuần Giáo, Mường La, Thuận Châu, Điện Biên Phủ.

 Có thể nói, đây là một bất ngờ lớn đối với địch, đồng thời cũng là một thành công lớn của ta trong việc tổ chức lực lượng thọc sâu, vu hồi chiến dịch vào phía sau lưng địch.

Đại tá, ThS NGUYỄN KHẮC BÌNH

(Trưởng phòng Tổng kết chiến tranh, Viện Lịch sử Quân sự)