“Cứ cho nó đến, quyết không cho về”
Dưới sự chỉ đạo kiên quyết, khoa học và kịp thời của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên, các đơn vị thuộc Bộ tư lệnh 559 đã phát huy mọi nguồn lực, khả năng, nỗ lực xây dựng thế trận cầu đường vận tải phong phú, đa dạng, liên hoàn, vững chắc từ khâu tổ chức che chắn, ngụy trang, nghi binh lừa trinh sát địch đến việc mở nhiều tuyến đường vòng tránh và làm hầm kiên cố dọc hai bên đường để làm nơi trú ẩn an toàn cho các lực lượng vận tải trước các tình huống tập kích của địch; đồng thời tổ chức các lực lượng hiệp đồng binh chủng, giáng cho kẻ thù những đòn chí mạng.
Trong câu chuyện với chúng tôi, Thiếu tướng Võ Sở, nguyên Phó tư lệnh về Chính trị Binh đoàn 12, kể: Đầu tháng 2-1971, các đơn vị của Bộ tư lệnh Trường Sơn được lệnh tham gia chiến đấu chống cuộc hành binh của Mỹ-ngụy ra Đường 9-Nam Lào. Khi bộ binh địch ồ ạt theo Đường 9 tràn lên phía Tây Trường Sơn, rồi các lực lượng không vận của chúng rục rịch “cất cánh”, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên yêu cầu các đơn vị, binh trạm: Nhử địch vào thật sâu, sẵn sàng chủ động tiến công vào các đội hình trực thăng của chúng. Sử dụng mọi vũ khí, phát huy mọi tầm hỏa lực, kiên quyết tiêu diệt địch, với khẩu hiệu “Cứ cho nó đến, quyết không cho về”.
Ba ngày đầu, trực thăng địch bay đầy trời khu vực Sê Pôn, Bản Đông (Quảng Trị), đổ quân ào ạt. Một vài đơn vị phòng không của ta nôn nóng, đề nghị cho đánh. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên vẫn kiên trì, bình tĩnh chỉ thị cho lực lượng cao xạ theo dõi, bám sát các hoạt động của địch; chỉ được sử dụng súng máy nhằm gây cho đối phương sự chủ quan. Ngày thứ tư, ngoài đổ quân, máy bay địch đã trút theo vũ khí, trang bị. Lực lượng cao xạ của Bộ tư lệnh Trường Sơn cùng hỏa lực phòng không của chiến dịch tập trung đánh địch, tạo thành lưới lửa phòng không dày đặc...
Hồi ức về trận đánh này, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đã viết trong cuốn “Đường xuyên Trường Sơn” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2004) như sau: "Mỹ-ngụy “lâm nạn” ở Đường 9 trở thành đề tài nóng hổi, hấp dẫn đối với các hãng thông tấn, báo chí Âu-Mỹ. 21 giờ ngày 10-2-1971, Đài BBC phát đi từ London bản tin: Quân đội Việt Nam cộng hòa tiến quân lên Đường mòn Hồ Chí Minh đã vấp phải lưới lửa phòng không dày đặc chưa từng thấy của Bắc Việt, 50 chiếc máy bay lên thẳng bị bắn hạ...
 |
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên động viên bộ đội làm nhiệm vụ trên tuyến lửa Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh tư liệu
|
Vào thời điểm đó, tại địa đạo chỉ huy sở Bộ tư lệnh, cán bộ, nhân viên đều ngồi bên chiếc loa lắng nghe những âm thanh tuyệt vời từ trận địa tiền duyên vọng về do máy điện thoại phát ra. Ba chiếc, năm chiếc, rồi tám chiếc rơi... Cả chỉ huy sở reo lên, không khác gì cảnh xem bóng đá trước máy thu hình ngày nay: Sút... vào!... Thực tế, số máy bay địch “gửi xác” ở cao điểm Nam-Bắc Đường 9 còn gấp nhiều lần số mà đối phương thú nhận. Riêng hai ngày 8 và 9-2-1971, lực lượng phòng không Trường Sơn đã bắn rơi 50 chiếc”.
Hiểm họa mang tên AC-130
Đại tá Phan Hữu Đại, nguyên Chính ủy, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn ô tô 571 (Đoàn 559), vẫn nhớ tường tận: Sau khi Chiến dịch Đường 9-Nam Lào kết thúc, địch tập trung đánh phá tuyến vận tải chiến lược, chuyển từ đánh phá cầu đường là chủ yếu sang đánh tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện vận tải, kho tàng; đồng thời thay đổi quy luật đánh phá, tập trung hỏa lực từ B-52 đến các loại cường kích, sử dụng tất cả các loại bom đạn đánh vào lúc chập choạng tối hoặc tảng sáng, đánh vào khu vực xuất kích của đội hình xe, các kho bãi, các đầu mối giao thông. Đối tượng nguy hiểm nhất của tuyến vận tải chiến lược lúc này là máy bay AC-130.
Từ đầu mùa khô, máy bay AC-130 của địch “túc trực” bắn phá hết đêm này sang đêm khác, từ đầu tuyến đến cuối tuyến, đặc biệt là khu vực Nam-Bắc Đường 9. Hầu như các đoàn xe của ta đều bị loài “ác điểu” này tấn công, không một đoàn xe nào không bị phát hiện, kể cả đang đi trong rừng hoặc tắt đèn, số xe bị cháy tăng vọt. Trong số ô tô bị đánh hỏng thì có tới 60-70% do AC-130 gây ra. Mặc dù ta đã tìm mọi biện pháp, kể cả thay đổi quy luật chạy xe, tăng cường bảo đảm kỹ thuật, các biện pháp trinh sát, báo động, phòng tránh, nhưng hầu như ô tô ta gặp AC-130 đều bị bắn cháy hoặc hỏng xe và thương vong cho lái xe. Tình hình này đã gây tâm trạng lo lắng cho cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chở vũ khí, đạn, xăng dầu. Đây là hiện tượng không bình thường, chưa có tiền lệ đối với bộ đội vận tải Trường Sơn và là một trong những khoảng thời gian lao đao, gian khổ nhất của Bộ đội Trường Sơn kể từ khi thành lập.
Tuyến đường kín chống “giặc trời” hiệu quả
Theo Đại tá Phan Hữu Đại, trước tình hình máy bay AC-130 oanh tạc khủng khiếp, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên giao nhiệm vụ cho một số đoàn đi khảo sát, nghiên cứu. Mấy ngày sau, tin từ các đoàn báo về đánh giá khá thống nhất: Máy bay AC-130 có khả năng phát hiện ô tô đang hoạt động trong đêm tối. Tầm hoạt động của chúng trên 3 cây số, chủ yếu là bắn đạn 40mm, ngoài ra có thể dùng súng máy 20mm hoặc tên lửa tầm ngắn gây sát thương trên phạm vi rộng. Khi đội hình xe đang chạy, gặp AC-130, mặc dù tắt hết đèn gầm vẫn bị phát hiện. Trường hợp cho xe dừng lâu, máy nguội thì chúng không phát hiện được.
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên và các đồng chí trong Bộ tư lệnh thống nhất biện pháp ứng phó. Trước hết, nắm chắc quy luật hoạt động của địch, quán triệt tư tưởng tiến công, chạy lấn sáng, lấn chiều, điều chỉnh lại lưới lửa phòng không tích cực đánh địch, kết hợp pháo 37mm và 57mm có khí tài; tăng cường nghi binh, cho một số xe cũ nát chạy để hướng hỏa lực địch ra xa đội hình xe đang chạy. Sau khi phát đi tinh thần trên cho các đơn vị, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên báo cáo Bộ Tổng Tham mưu, đề nghị tăng cường pháo 57mm và tên lửa.
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cùng Phó chính ủy Lê Xy xuống Binh trạm 32 nghiên cứu mở những đoạn đường chạy dưới tán rừng già. Ông cho rằng, nếu AC-130 chỉ phát huy tác dụng về đêm thì ta sẽ khắc chế chúng bằng cách chạy ngày. Trước đó, Binh trạm 32 đã làm được 40km đường kín dưới tán rừng già, xe có thể chạy ban ngày. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cho xe chạy ban ngày nhưng ở mức độ thực nghiệm, vì quãng đường 40km chưa đủ chứng minh cho một thế trận mới.
 |
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên thị sát thực địa đường Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh tư liệu
|
Từ Binh trạm 32 về, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên triệu tập các cơ quan tham mưu, công binh, vận tải để khẩn trương bàn phương án mở đường kín và tổ chức một đoàn khảo sát đường kín từ Binh trạm 32 chạy thẳng vào khu vực ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia. 20 ngày sau, đoàn khảo sát từ thực địa về, quần áo ai cũng đỏ quạch bụi đường, vào thẳng phòng làm việc của Tư lệnh để báo cáo. Thế là phương án làm tuyến đường kín dài 800km đi qua rừng già được Bộ tư lệnh duyệt. Về tổ chức thi công, tiến hành nhiều mũi, hợp điểm để nhanh chóng thông tuyến. Thời gian thi công chủ yếu là ban ngày, có thể lấn đêm.
Khởi công ngày 20-4-1971, đến cuối tháng 1-1972, đường kín thông toàn tuyến. Theo Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, nguyên Cục trưởng Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng), đây là đường dã chiến, để giữ được bí mật lâu nên chỉ thiết kế mặt đường cho một làn xe, triệt để không chặt cây dù phải đi đường vòng. Cứ 200m làm chỗ tránh cho 2 xe, 1km có chỗ tránh cho 10 xe, 10km có chỗ tránh cho một đại đội xe 36 chiếc. Nơi bằng phẳng thì làm đường đôi bảo đảm cho cả trung đoàn xe ra vào liên tục. Trên đường kín kết hợp vận chuyển theo 3 phương pháp: Vận chuyển đội hình lớn đi ban ngày; vận chuyển đội hình nhỏ đi ban đêm trên đường công khai, đồng thời chọn một số lái xe dũng cảm tổ chức nghi binh thu hút lũ “ác điểu” AC-130.
Ngày 10-2-1972, đội hình xe của Trung đoàn 13 vận tải ô tô được chọn chạy khánh thành đường kín. Đồng thời để mừng công trình đặc biệt quan trọng này, Bộ tư lệnh Trường Sơn quyết định mở liên tiếp hai chiến dịch vận tải quy mô lớn “Đồng Xoài” và “Bình Giã”. Hai chiến dịch đều thắng lợi lớn, đến cuối mùa khô 1971-1972, ta đã có gần 2.300km đường kín. Đường kín đã góp phần giảm đáng kể tổn thất cho các đoàn xe. Theo thống kê, xe chạy ban ngày trong đường kín an toàn 70-90%; trên đường nửa kín nửa hở bị đánh hỏng từ 20-30%; xe chạy trong đêm bị đánh hỏng 60-70%...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng viết: “Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên là một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước có đức độ và tài năng, một người học trò ưu tú của Bác Hồ... Đồng chí là một cán bộ, đảng viên mẫu mực, có phẩm chất trong sáng, sống trung thực, đoàn kết, khiêm tốn, giản dị... Đối với tôi, tướng Đồng Sỹ Nguyên là một trong những người đồng chí, người bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi suốt cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc mà tôi rất tin và quý mến”. |
SƠN BÌNH