Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Bộ tư lệnh Trường Sơn là người đóng góp vai trò quan trọng trong xây dựng, phát triển con đường đặc biệt này.

Xây dựng đường ống xăng dầu dưới lửa đạn

Trong hồi ký của mình, Thượng tướng Phùng Thế Tài, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, viết: “Cuối năm 1967, xăng dầu trở thành vấn đề thời sự trong các cuộc giao ban hằng ngày... Tất cả các binh trạm cửa khẩu gặp khó khăn trong vận chuyển nên cả tháng 12-1967, tuyến Trường Sơn chỉ nhận được 20 tấn xăng. Nguồn xăng cạn đến mức chỉ dành cho cấp cứu, chỉ phát khi có lệnh của chỉ huy trưởng binh trạm trở lên. Cũng do thiếu xăng nghiêm trọng, lực lượng cơ giới trên tuyến gần như ngừng hoạt động”.

Nhớ lại giai đoạn khó khăn ấy, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, nguyên Cục trưởng Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng), nguyên kỹ sư thiết kế, thi công đường ống xăng dầu Trường Sơn, kể lại: Mặc dù dùng nhiều phương pháp để đưa xăng dầu vào tiền tuyến nhưng chỉ mang “nhỏ giọt”. Đặc biệt, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bom đạn địch phá hoại nghiêm trọng các tuyến đường vào tiền tuyến.

Tháng 4-1968, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đã khẩn cấp điện báo cáo Bộ Quốc phòng: “Do thiếu xăng, xe phải ngừng hoạt động. Nếu không kịp chuyển xăng và lương thực vào sẽ có nguy cơ hàng vạn bộ đội và thanh niên xung phong bị đói”. Tình hình đó làm cho Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng hết sức “đau đầu”.

Trong một lần dự diễn tập của khối Warszawa, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện phát hiện ra Hồng quân Liên Xô có bộ đường ống dã chiến phục vụ chiến dịch. Mỗi đoạn ống chỉ nặng hơn 30kg, bộ đội có thể vác luồn lách trong rừng, tuyến ống có thể tháo lắp, máy bơm có thể cơ động. Có nhiều ý kiến không đồng tình vì cho rằng đem đường ống cấp chiến thuật vào vận tải chiến lược, trên địa hình phức tạp như Trường Sơn, lại không có ô phòng không là quá mạo hiểm. Đồng chí Chủ nhiệm dứt khoát: “Xét về chiến lược, tôi thấy làm được, còn việc khắc phục địa hình và đối phó với địch thì phải giải quyết trong thực tế”.

 “Và rồi, tuyến ống thí điểm đầu tiên dài 42km, mang mật danh X42 vượt qua Tam giác lửa Vinh-Nam Đàn-Linh Cảm đã thành công. Mùa mưa năm 1968, Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện đã thông báo cho Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên khả năng đưa đường ống vào Đoàn 559, và với phương thức này, chúng ta hy vọng có thể giải quyết được vấn đề xăng dầu cho vận tải cơ giới lớn”, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu nhớ lại.

leftcenterrightdel
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên duyệt phương án thi công đường ống xăng dầu qua Tây Nguyên tại thực địa, cuối năm 1969. Ảnh tư liệu 

Theo Đại tá Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng về Chính trị Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần): Giữa năm 1969, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Đoàn 559 họp và xác định: Tiếp tục làm đường ống dẫn xăng dầu theo Đường số 18 vào Đường số 9. Hơn hai tháng trời, B-52 và các loại máy bay đánh nát tất cả các con suối, yên ngựa.

Các đơn vị thi công, vác ống bị tổn thất nặng nề. Bắt đầu xuất hiện tư tưởng dao động, lo lắng không thể thi công tiếp tuyến ống vào trong. Trước tình hình đó, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên theo sát từng bước, yêu cầu Binh trạm 9 phải bằng mọi giá kiên quyết đưa xăng vượt qua cửa khẩu, vào Bản Cọ (cách biên giới 50km), phục vụ vận chuyển mùa khô 1969-1970. Thấy lực lượng thi công mỏng, Tư lệnh nhanh chóng chỉ thị cho tăng cường đủ một trung đoàn công binh và thanh niên xung phong kết hợp thi công lắp đặt đường ống và mở rộng Đường số 18.

Ngày 22-12-1969, tại buổi khánh thành đường ống dẫn xăng dầu tuyến K200-Bản Cọ, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên khẳng định: “Sự kiện đưa vào vận hành đoạn đầu của tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã tăng thêm một tuyến vận tải mới, một binh chủng mới, một phương thức vận tải xăng dầu hiện đại. Từ nay, sẽ thanh toán được sự tổn thất lớn trong chiến tranh do việc vận chuyển phuy hoặc téc xăng dầu bằng phương tiện ô tô. Đây là một bước ngoặt quyết định bảo đảm vận tải hàng hóa và cơ động binh khí kỹ thuật quy mô lớn”.

Nhằm tăng cường sức cơ động cho các phương tiện vận chuyển, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cùng Bộ tư lệnh Trường Sơn đề nghị Bộ Quốc phòng phê duyệt phương án tổ chức một số trung đoàn xăng đầu. Trung đoàn 592 và 532 là hai trung đoàn đường ống xăng dầu đầu tiên được thành lập, đã khẩn trương xây dựng các tuyến đường ống và các kho chứa, bể chứa tương ứng với các cung vận chuyển phục vụ đội hình xe vừa chạy theo cung, bảo đảm vững chắc nhiên liệu cho các hướng.

Nhờ vậy, kịp thời bổ sung vũ khí, vật chất kỹ thuật, hàng hóa cho chiến trường Trị-Thiên và Mặt trận Đường 9-Bắc Quảng Trị. Sau Hiệp định Paris (ngày 27-1-1973), Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cùng Bộ tư lệnh Trường Sơn tập trung lực lượng xăng dầu củng cố hệ thống đường ống, các khu kho chứa, bể chứa tăng cường trạm bơm bảo đảm kịp thời và giải phóng xe nhanh. Đồng thời, tiếp tục cho khảo sát, thiết kế, thi công phát triển tuyến đường ống xuống Tây Nguyên và rẽ ngang vào một số chiến trường, tiến tới xây dựng tuyến đường ống phía Đông song song với phía Tây Trường Sơn.

Việc xây dựng tuyến đường ống xăng dầu Trường Sơn đã giải quyết cơ bản việc cung ứng xăng dầu cho tất cả các lực lượng vận tải của Bộ đội Trường Sơn, lực lượng vận tải của 2 nước bạn Lào và Campuchia cùng các lực lượng hành quân của Bộ trên đường Trường Sơn. Đặc biệt, trong Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh, tuyến đường ống xăng dầu Trường Sơn đã đáp ứng mọi yêu cầu về xăng dầu cho tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch kịp thời.

Từ khi có tuyến đường ống xăng dầu, tuyến Trường Sơn chấm dứt lực lượng lớn vận tải xăng dầu bằng xe téc và xe chở phi xăng; trên mỗi xe ô tô vận tải của Bộ đội Trường Sơn không còn phải mang thùng phuy xăng dầu dự phòng, dành trọng tải cho việc chở hàng chi viện... Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên từng nói: “Nếu đường Trường Sơn là huyền thoại thì đường ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại đó”.

“Bộ đội Trường Sơn không được phép nói không làm được”

Việc xây dựng tuyến đường ống xăng dầu hiện đại và quy mô được thực hiện trong điều kiện vô cùng phức tạp về địa hình, thời tiết, sự đánh phá ngăn chặn ác liệt của địch. Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu nhớ lại: Thi công đường ống qua khu vực gần sông Ba Lòng (Quảng Trị) địa hình rất phức tạp, hiểm trở. Lúc khảo sát, tôi trao đổi với đồng chí Nguyễn Phúc Môn, kỹ sư phụ trách thi công đường, rằng việc làm đường ống qua đây không hề đơn giản.

Sau khi thống nhất phương án, đồng chí Phan Ninh, Chính ủy Trung đoàn Đường ống 671 và đồng chí Môn lên báo cáo Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên: Do địa hình hai bên vách đá dựng đứng, không thể đi ống xuống 30m, đi ngang suối rồi lại đi ngược lên 30m, nên chỉ có thể bắc cầu treo dài khoảng 100m vượt qua suối. Để làm cầu treo phải có dây cáp, nhưng không thể tìm đâu ra. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên nói ngay: Bộ đội Trường Sơn là phải làm được những cái khi người khác không làm được. Ngày trước, ngoài sử dụng dây thừng, bộ đội Điện Biên còn dùng các loại dây rừng như song, mây để kéo pháo vào trận địa. Giờ tôi chỉ có loại dây thép 3mm của bên thông tin, các cậu có làm được không?

Hai người chưa kịp trả lời thì Tư lệnh chỉ giáo: “Bộ đội Trường Sơn, nhất là kỹ sư ở Trường Sơn, không bao giờ nói khó không làm được".

Đứng trước Tư lệnh dáng người cao to, giọng nghiêm khắc, đồng chí Nguyễn Phúc Môn mạnh dạn nói: "Báo cáo Tư lệnh. Dây thông tin có thể bện thành cáp để treo đường ống!”. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên nhất trí và sau đó yêu cầu lực lượng thông tin cấp dây để triển khai thực hiện.

Một kỷ niệm khác mà Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu vẫn nhớ như in, đó là đầu năm 1975, khi đang làm Phó ban Thiết kế thi công (Cục Xăng dầu) đóng quân ở Quảng Trị, ông nhận lệnh lên đường vào Tây Nguyên làm nhiệm vụ hỗ trợ khắc phục đường ống xăng dầu tại sông Sêrêpôk (đoạn qua tỉnh Đắk Lắk). Để thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên yêu cầu cử thêm một đồng chí cục phó đi cùng để chỉ đạo.

Hồ Sỹ Hậu và Cục phó Cục Xăng dầu Trần Danh Hòa nhận lệnh cấp tốc xuất phát từ Quảng Trị bằng ô tô. “Đến nơi, đặt ba lô, tôi cùng cán bộ Trung đoàn 537 liền ra hiện trường kiểm tra, thấy nước sông Sêrêpôk vẫn cuồn cuộn chảy xiết, đường ống đặt ngầm dưới nước rung rung hai đầu. Dùng máy bơm thử nước từ bờ Bắc sang bờ Nam thì thấy nước trong ống tụt rất nhanh lúc dừng bơm. Nhận biết đường ống bị thủng ở giữa sông, chỉ còn cách làm cầu treo đưa ống vượt sông, tôi báo cáo về Tư lệnh. Vào thời điểm Chiến dịch Hồ Chí Minh sắp mở màn nên Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên chỉ đạo: Bất cứ ai làm được, giúp được gì bộ đội đường ống khắc phục sự cố đều phải thực hiện. Theo đó, Tiểu đoàn 3 Công binh thuộc Sư đoàn 470 làm cầu phà gần khu vực đã hỗ trợ nên nhanh chóng khắc phục được sự cố. Đến giữa tháng 3-1975, tuyến đường ống đã thông từ Tây Nguyên vào kho Bù Gia Mập (Bình Phước), kịp phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh", Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu kể.

Nhà báo người Mỹ Virginia Louise Morris, tác giả cuốn "Đường mòn Hồ Chí Minh-con đường dẫn tới tự do", đã viết: “Người Việt đã vượt lên người Mỹ về tầm nhìn xa, đã xây dựng cơ sở hạ tầng của một hệ thống kho xăng dầu và một hệ thống đường ống dài 5.000km chạy từ biên giới Việt-Trung, dọc ngang Trường Sơn về tới Đông Nam Bộ... Đây là dự án khủng khiếp”.  

(Còn nữa)

SƠN BÌNH