Những kết quả nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học trong nước và các học giả quốc tế đều khẳng định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu là nhân tố quyết định. Ngoài ra, trên cơ sở quán triệt và hiện thực hóa đường lối, tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố chính trị tinh thần đóng vai trò quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quy tụ, tập hợp, nhân lên sức mạnh của các lực lượng cách mạng, tạo thành sức mạnh chính trị tinh thần của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Sức mạnh chính trị tinh thần là một bộ phận hợp thành sức mạnh quốc phòng của một cộng đồng quốc gia - dân tộc: “SỨC MẠNH QUỐC PHÒNG, tổng thể nguồn lực ở trạng thái sẵn sàng động viên cho mục đích quốc phòng, quân sự và an ninh của một nhà nước (hay liên minh các nước). Sức mạnh quốc phòng được cấu thành bởi yếu tố vật chất và chính trị tinh thần, gồm tổng thể các tiềm lực: xã hội; kinh tế (nòng cốt là tiềm lực kinh tế quân sự); quốc phòng, quân sự; chính trị tinh thần; khoa học và công nghệ (cốt lõi là tiềm lực khoa học và công nghệ). Sức mạnh quốc phòng phụ thuộc trực tiếp vào: Chế độ chính trị - xã hội; trình độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; phát triển xã hội; học thuyết quân sự và chiến lược quân sự; truyền thống văn hóa... của mỗi quốc gia (vùng lãnh thổ), trong đó chế độ chính trị - xã hội quyết định mục đích sử dụng sức mạnh quốc phòng. Đặc trưng cơ bản nhất của sức mạnh quốc phòng được biểu hiện ở: Sức mạnh quân sự, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội; trình độ sẵn sàng động viên của các nguồn lực và năng lực tổ chức tiến hành động viên của nhà nước”[1].
Có thể hiểu sức mạnh chính trị tinh thần của một đội quân, một dân tộc trong mỗi cuộc chiến tranh là một hệ thống phức hợp những giá trị và sự ý thức về những giá trị ấy, tạo nên trạng thái cảm xúc, tâm lý tích cực giúp cho mỗi cá nhân nói riêng, cả một đội quân, một dân tộc nói chung luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Sức mạnh chính trị tinh thần biểu hiện cụ thể ở việc mỗi người luôn nhận thức đúng đắn về tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh đang tham gia, ở trạng thái quyết tâm cao độ, ở ý chí sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ở niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Trong mối quan hệ với các nhân tố khác để tạo nên sức mạnh chiến đấu của một đội quân, sức mạnh chính trị tinh thần đóng vai trò nền tảng, là chất xúc tác để nhân lên sức mạnh, giúp cho một đội quân có thể vượt qua được sự chênh lệch, thua kém trong tương quan so sánh tiềm lực vật chất, vũ khí, trang bị để giành thắng lợi cuối cùng. Trên tầm nhìn chiến lược và lịch sử quốc phòng, sức mạnh chính trị tinh thần của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hết sức tiêu biểu, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn cách mạng, trong quá khứ, ở hiện tại và hướng tới tương lai phía trước.
Nhìn lại tiến trình của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho thấy Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì nỗ lực chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Sự chuẩn bị đó là một quá trình được tiến hành bền bỉ, lâu dài, đồng thời có những dấu mốc đột phá, tạo ra các bước ngoặt. Trong điều kiện tổ chức và phương tiện giao thông khó khăn ở Việt Nam trong đêm trước của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” được Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ban hành vào ngày 12-3-1945 là sự chuẩn bị về chính trị một cách xuất sắc của Đảng[2]. Cùng với khẩu hiệu “Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói!”, bản Chỉ thị đã nhanh chóng truyền đi khắp cả nước, thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh, mở ra cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh và cán bộ Đảng ở cơ sở, phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói cho dân nghèo thực sự đã biến thành phong trào khởi nghĩa từng phần ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, khiến cho uy tín chính trị của Mặt trận Việt Minh càng được củng cố chắc chắn, ảnh hưởng của Việt Minh trong các tầng lớp nhân dân càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Lúc đó, tinh thần và quyết tâm chính trị to lớn thể hiện sâu sắc trong lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”[3]. Vượt qua muôn vàn khó khăn, Đại hội Quốc dân đã được tổ chức thành công tại Tân Trào (Tuyên Quang) vào ngày 16-8-1945, thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc Việt Nam trong giờ phút quyết định, biểu hiện cho lòng tin tưởng tuyệt đối của toàn dân vào Đảng, đồng thời tượng trưng cho quyết tâm sắt đá của toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đứng lên giành tự do, độc lập. Ngày sau đó, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời hiệu triệu của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi tới toàn thể nhân dân, các đoàn thể cách mạng và các đảng viên cộng sản, kêu gọi đồng bào và các đoàn thể cứu quốc, dưới quyền chỉ huy của Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam và Ủy ban khởi nghĩa, hãy cùng với Giải phóng quân và tự vệ nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân với tinh thần mạnh mẽ “Giờ khởi nghĩa đã đến, ngày vinh quang của Tổ quốc đã bùng nổ. Quyết chiến, quyết chiến, quyết chiến! Thắng lợi nhất định về ta”[4]. Tiếp đó, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam ban hành bản Hiệu triệu của Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam gửi tới toàn thể nhân dân và các đoàn thể cứu quốc, mạnh mẽ kêu gọi: “Hỡi quốc dân đồng bào! Ngày vĩ đại và quyết liệt của dân tộc đã đến. Chúng ta hãy vùng dậy tuốt gươm lắp súng để định đoạt lấy số phận của mình. Chúng ta quyết thắng và sẽ thắng”[5]. Trong thời điểm lịch sử nóng bỏng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bức Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa gửi tới đồng bào cả nước, thiết tha kêu gọi: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”[6].
 |
Các khối luyện tập tham gia diễu binh, diễu hành nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Ảnh: HOÀNG VIỆT |
Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng, Ủy ban Dân tộc Giải phóng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng độc lập tự do cháy bỏng, với quyết tâm to lớn, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam từ Bắc tới Nam đã vùng lên làm cuộc tổng khởi nghĩa oanh liệt trên toàn quốc, tạo nên một kỳ tích trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương, Ủy ban khởi nghĩa và Mặt trận Việt Minh các địa phương đã phát huy tính chủ động sáng tạo, không thụ động ngồi chờ, kịp thời kêu gọi, tổ chức quần chúng đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Cơn bão táp cách mạng đã diễn ra dồn dập đồng thời trên khắp đất nước Việt Nam.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là kết quả trực tiếp của những yếu tố dân tộc và thời đại, trong nước và quốc tế, chủ quan và khách quan của thời kỳ 1939 - 1945, đặc biệt là kết quả của cuộc vận động cứu quốc do Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng là đỉnh cao của toàn bộ cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và tiến bộ xã hội mà dân tộc Việt Nam đã bền bỉ, anh dũng tiến hành liên tục trong suốt thời gian từ năm 1858 đến 1945.
Chỉ trong vòng hơn hai tuần lễ, từ ngày 13 đến 28-8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi trên phạm vi toàn quốc và giành thắng lợi căn bản. Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội, đưa cuộc Tổng khởi nghĩa lên tầm cao mới, khẳng định sức mạnh của bạo lực cách mạng và phương pháp đấu tranh giành chính quyền theo tinh thần chủ động, sáng tạo, mau lẹ, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước khẩn trương tiến hành và kết thúc thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 trên phạm vi toàn quốc... Lễ thoái vị của hoàng đế Bảo Đại được chính thức tổ chức vào ngày 30-8-1945 tại Ngọ Môn trong kinh thành Huế (Thừa Thiên Huế), chính thức chấm dứt sự tồn tại của vương triều Nguyễn (1802 - 1945) trong lịch sử Việt Nam. Đến ngày 2-9-1945, trong buổi Lễ Độc lập được trang trọng tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Cách mạng Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và các quốc gia trên thế giới việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do ra đời[7].
Nghiên cứu về cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam cho thấy nổi bật lên phương thức huy động lực lượng tổng hợp, gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tạo nên sức mạnh áp đảo, giành chính quyền. Trong đó, lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị đóng vai trò quyết định. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 vừa sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, vừa kết hợp sách lược mềm dẻo để cô lập, vô hiệu hóa quân địch, giành chính quyền nhanh chóng, đồng loạt, ít đổ máu. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của ý chí, tinh thần và trí tuệ Việt Nam, của văn hóa cứu nước và giữ nước Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết tinh truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm chống xâm lược và gần một trăm năm đấu tranh bất khuất chống ách thống trị của thực dân đế quốc và phát xít, đã lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa và phát huy sức mạnh chính trị tinh thần của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sức mạnh chính trị tinh thần của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, toàn bộ hệ thống chính trị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung đã được kế thừa, hun đúc và phát triển lên một tầm cao mới trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa (1954 - 1975), cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam (1977 - 1979), cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (năm 1979), công cuộc Đổi mới đất nước (1986 đến nay).
Trong từng thời kỳ lịch sử, sức mạnh chính trị tinh thần lại có những bước phát triển mới, góp phần tạo thành sức mạnh quốc phòng Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Đặc biệt, sức mạnh chính trị tinh thần đã đóng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam và có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang có nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Trong nước, sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Tất cả đang tác động, cản trở không nhỏ tới việc thực hiện nhiệm vụ củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần tiếp tục đào sâu nghiên cứu, tích cực coi trọng xây dựng, phát huy sức mạnh chính trị tinh thần để tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Lịch sử đã cho thấy rõ ràng thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 nói riêng, mọi thắng lợi của phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam đều trước hết là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Từ sức mạnh chính trị tinh thần của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho thấy, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác chính trị - tư tưởng là yêu cầu thường trực và lâu dài để đảm bảo giữ vững và phát triển sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Để phát huy sức mạnh chính trị tinh thần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm Quân đội nhân dân Việt Nam luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Trước hết, cần phải thường xuyên chăm lo xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Tiếp đó, cần chú trọng xây dựng, kiện toàn tổ chức về mọi mặt, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng; đổi mới phong cách, phương thức lãnh đạo, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; đề cao tự phê bình và phê bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[8]. Để kế thừa, phát triển sức mạnh chính trị tinh thần cần xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ các cấp có vai trò quyết định kết quả thực hiện thắng lợi nhiệm vụ. Xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề chiến lược, khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng, thiết thực góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện lời nói đi đôi với việc làm, cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ làm gương cho chiến sĩ học tập, noi theo, hằng ngày, hằng giờ đều tạo ra và phát huy sức mạnh chính trị tinh thần trong từng công việc, từng nhiệm vụ, từng hoạt động.
Trong bài thơ "Nửa đêm" ở tập thơ "Nhật ký trong tù", Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên”[9]. Bởi vậy, để phát huy sức mạnh chính trị tinh thần cần phải: Thường xuyên đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sức mạnh chính trị tinh thần biểu hiện tập trung ở tinh thần yêu nước, quyết tâm đấu tranh giành độc lập, nhận thức sâu sắc về thời cơ cách mạng. Điều đó có được là do Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cấp ủy Đảng đã làm tốt công tác chuẩn bị về tư tưởng, giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, khơi dậy lòng yêu nước, quyết tâm đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, định hướng và quản lý tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Trước hết, cần trang bị cho cán bộ, chiến sĩ những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để trực tiếp nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận, củng cố mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tinh thần vươn lên làm chủ về mọi mặt, mưu trí, sáng tạo, tự lực, tự cường, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Trong thời gian qua, chúng ta đã thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, cùng với những quy chế giáo dục chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, dân quân tự vệ và các chỉ thị, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị đối với công tác giáo dục chính trị. Để tiếp tục kế thừa và phát huy sức mạnh chính trị tinh thần trong Quân đội cần coi trọng giáo dục chính trị tinh thần trong các nhiệm vụ, xây dựng chính quy, tạo sự chuyển biến toàn diện, vững chắc về tư tưởng, ý chí, quyết tâm trong thực hiện nhiệm vụ. Tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị sát với nhiệm vụ, đối tượng, đặc thù đơn vị. Tăng cường công tác tư tưởng, thực hiện tốt các khâu, các bước trong nắm, quản lý, giải quyết tình hình tư tưởng, bảo đảm công tác tư tưởng luôn đi trước một bước, giải quyết kịp thời các vướng mắc về tư tưởng của bộ đội trước sự tác động của các yếu tố tiêu cực, góp phần tạo dựng sự ổn định, đồng thuận trong cơ quan, đơn vị.
Dân gian Việt Nam có câu “Có thực mới vực được đạo” và “Có bột mới gột lên hồ”. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ nguyên lý “vật chất quyết định ý thức”. Sức mạnh chính trị tinh thần chỉ được tạo dựng, nâng cao và phát huy trong những điều kiện bảo đảm nhất định về vật chất. Bởi vậy, để kế thừa và phát huy sức mạnh chính trị tinh thần cần thường xuyên quan tâm chăm lo bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội cũng như chính sách hậu phương Quân đội.
Trong những năm qua, vượt qua muôn vàn khó khăn của Quân đội và đất nước, đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội cũng như chính sách hậu phương Quân đội đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, không ngừng nâng cao chất lượng về mọi mặt, tạo ra động lực, củng cố niềm tin, tạo nền tảng chính trị tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Chúng ta đã làm tốt công tác bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội và chính sách hậu phương Quân đội.
Để tiếp tục tạo dựng nền tảng và phát triển, phát huy sức mạnh chính trị tinh thần, Đảng, Nhà nước và Quân đội cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung cơ chế chính sách nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; đồng thời thực hiện tốt hơn nữa các chế độ, chính sách đối với gia đình quân nhân, công chức, viên chức quốc phòng tại ngũ cả trước mắt và lâu dài, cả thường xuyên và đột xuất, nhất là những trường hợp có nhiều khó khăn. Điều này sẽ góp phần động viên tinh thần, nâng cao đời sống về mọi mặt cho các đối tượng chính sách, lâu dài trở thành động lực to lớn, nâng cao sức mạnh chính trị tinh thần, thúc đẩy các cán bộ, chiến sĩ ra sức học tập và công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã cách nay 80 mùa thu lịch sử. Nghiên cứu về chiến lược và lịch sử quốc phòng Việt Nam cho thấy cuộc cách mạng vĩ đại dời non lấp biển ấy vẫn luôn là một điển hình về sức mạnh chính trị tinh thần. Trong suốt gần một thế kỷ qua, sức mạnh chính trị tinh thần của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã được kế thừa và không ngừng phát huy, cả về lý luận và thực tiễn, cả trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Thấu suốt bài học lịch sử về sức mạnh chính trị tinh thần của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 càng giúp chúng ta luôn giữ vững niềm tin, đập tan mọi luận điệu tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, hoàn thành xuất sắc trọng trách cao quý mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam
* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.
[1] Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng, Từ điển thuật ngữ quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.638-639.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 364 - 373.
[3] Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 195 - 197.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 416.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 562 - 563.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 595 - 596.
[7] Trịnh Nhu, Trần Trọng Thơ, Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 234 - 315.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 309.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 413.