Các ý kiến tham gia đóng góp gửi về Cục Chính sách-Xã hội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam theo địa chỉ: Số 34C Trần Phú, phường Hoàn Kiếm, TP Hà Nội, email: chinhsachquandoi@gmail.com trước ngày 11-8-2025 hoặc về Bộ Quốc phòng qua email: info@mod.gov.vn.
Chu đáo, nghĩa tình với sĩ quan Quân đội nghỉ hưu
Dự thảo Tờ trình kèm Dự thảo Nghị định cho biết: Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 23-3-1988 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo chấp hành tốt chính sách hậu phương Quân đội, xác định: “Cần chú trọng thực hiện tốt các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước về chăm sóc các đồng chí cán bộ Quân đội về hưu…”.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, từ năm 1982 đến năm 2016, Bộ Quốc phòng đã ban hành nhiều văn bản quy định các chế độ, chính sách góp phần chăm sóc cán bộ Quân đội nghỉ hưu.
Đặc biệt, ngày 15-8-2011, Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư số 158/2011/TT-BQP về thực hiện một số chế độ, chính sách góp phần chăm sóc đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu. Đây là cơ sở pháp lý để các cơ quan, đơn vị thực hiện thống nhất các chế độ, chính sách đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu.
Từ năm 2012 đến nay, Bộ Quốc phòng đã thực hiện chế độ bồi dưỡng cho trên 74.000 lượt cán bộ Quân đội nghỉ hưu thuộc đối tượng 1. Đối tượng 2 trở xuống là 103.000 phiếu mời đi an điều dưỡng tại các đoàn an điều dưỡng Quân đội hoặc bồi dưỡng cho những đồng chí cán bộ Quân đội nghỉ hưu thuộc đối tượng 2 trở xuống có nhiều công lao, cống hiến, cán bộ có tuổi đời cao chưa được đi an dưỡng tại các đoàn an điều dưỡng Quân đội.
Cũng trong khoảng thời gian này, Bộ Quốc phòng đã xem xét, giám định, ra quyết định công nhận bệnh hiểm nghèo và hỗ trợ kinh phí cho trên 46.000 người. Quá trình thực hiện luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị quản lý cán bộ hưu và cơ quan quân sự địa phương trong việc tiếp nhận, xét duyệt, thẩm định hồ sơ, giám định bệnh hiểm nghèo và chi trả chế độ trợ cấp hằng quý theo đúng quy định.
Cũng từ năm 2012 đến nay, Bộ Quốc phòng đã hỗ trợ trên 133.000 lượt người mua báo, tạp chí; chỉ đạo tổ chức tang lễ cho trên 16.000 người.
Việc thực hiện các chế độ, chính sách trên có tác động tích cực và sức lan tỏa lớn, được các thế hệ cán bộ Quân đội và dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; tạo được uy tín của cán bộ Quân đội nghỉ hưu đối với cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân.
Qua đó, tạo tình cảm tốt đẹp, sự gắn bó giữa cán bộ, chiến sĩ đang công tác với các thế hệ đi trước, làm sâu sắc thêm nghĩa tình đồng đội; góp phần giáo dục, động viên, thu hút thế hệ trẻ vào phục vụ Quân đội, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
 |
Nhân viên lễ tân Đoàn An điều dưỡng 20 (Cục Chính trị, Quân chủng Phòng không-Không quân) tại phường Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa hướng dẫn khách nhận phòng. Ảnh: qdnd.vn
|
Những yêu cầu từ thực tiễn
Ngoài những kết quả trên, Dự thảo Tờ trình cũng nêu: Quá trình tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu thời gian qua đã phát sinh một số khó khăn, bất cập, đặt ra yêu cầu, đòi hỏi cấp bách, cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Thứ nhất là bất cập về chế độ, chính sách. Theo đó, số lượng cán bộ Quân đội nghỉ hưu ngày càng tăng nên tỷ lệ cán bộ được hưởng chế độ an điều dưỡng ngày càng giảm do số lượng phiếu mời an điều dưỡng có giới hạn và tỷ lệ nhất định. Cụ thể, hiện nay có khoảng 280.000 sĩ quan Quân đội nghỉ hưu, nhưng theo quy định tại Thông tư số 158/2011/TT-BQP, chỉ có 7.050 phiếu mời an điều dưỡng.
Mức hỗ trợ đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu mắc bệnh hiểm nghèo còn thấp (mỗi quý được hỗ trợ 1 tháng lương cơ sở). Mức chi hỗ trợ tổ chức lễ tang còn thấp, chưa phù hợp, chưa thống nhất giữa mức hỗ trợ tổ chức lễ tang cấp nhà nước, lễ tang cấp cao (đơn vị chủ trì tổ chức lễ tang từ cấp Đại tá trở xuống được hỗ trợ từ 3 đến 7 triệu đồng, trong khi lễ tang cấp cao là 60 triệu đồng). Trong khi đó, điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước ngày càng phát triển (từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã nhiều lần điều chỉnh mức lương cơ sở), nhưng các chế độ, chính sách chưa được sửa đổi, bổ sung, gây tâm tư cho đối tượng.
- Thứ hai là khó khăn, bất cập về nguồn kinh phí bảo đảm. Từ năm 2022 về trước, kinh phí thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu theo quy định tại Thông tư số 158/2011/TT-BQP được Nhà nước bảo đảm; tuy nhiên, từ năm 2023 đến nay, Bộ Quốc phòng không được bảo đảm từ ngân sách Nhà nước.
Do vậy, trước mắt, Bộ Quốc phòng tạm thời sử dụng nguồn thu điều tiết lợi nhuận sau thuế của một số doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng để thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu, từ đó gặp khó khăn trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ.
- Thứ ba là bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chế độ, chính sách. Khoản 10 Điều 1, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam bổ sung thêm quy định về quyền lợi của sĩ quan khi nghỉ hưu như sau: Được hưởng chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, hiện nay Chính phủ chưa có quy định về chế độ này nên không có cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện.
- Thứ tư là bất cập về thẩm quyền sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Bộ Quốc phòng không có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để quy định hoặc sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách đối với đối tượng thuộc quyền. Do vậy, không có cơ sở pháp lý để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 158/2011/TT-BQP.
Từ những lý do nêu trên, việc xây dựng Nghị định quy định chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần đối với sĩ quan Quân đội nghỉ hưu là cần thiết và phù hợp.
Dự kiến các đối tượng áp dụng
Nội dung này được đề xuất tại Điều 2 Dự thảo Nghị định. Cụ thể:
1. Sĩ quan cấp tướng đã nghỉ hưu.
2. Sĩ quan cấp tá, cấp úy đã nghỉ hưu, gồm:
a) Sĩ quan cấp Đại tá hưởng mức lương 668 đồng theo quy định tại Nghị định số 235/HĐBT ngày 18-9-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang;
b) Sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ Tư lệnh, Chính ủy (Quân đoàn, Binh chủng, Vùng Hải quân, Vùng Cảnh sát biển và tương đương); Cục trưởng các cục có chức năng chỉ đạo toàn quân.
Sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,9 trở lên theo quy định tại Nghị định số 25/CP ngày 23-5-1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ từ 1,1 trở lên theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ từ 1,2 trở lên theo quy định tại Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 204/2004/NĐ-CP;
c) Sĩ quan cấp Đại tá nâng lương lần 2; sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ Phó tư lệnh, Phó chính ủy (Quân đoàn, Binh chủng, Vùng Hải quân, Vùng Cảnh sát biển và tương đương); Phó cục trưởng các cục có chức năng chỉ đạo toàn quân.
Sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ 0,8 theo quy định tại Nghị định số 25/CP hoặc giữ chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ 1,0 theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 1,15 theo quy định;
d) Sĩ quan cấp Đại tá hưởng mức lương 655 đồng theo quy định tại Nghị định số 235/HĐBT; sĩ quan cấp Đại tá nâng lương lần 1; sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ chỉ huy sư đoàn hoặc Bộ CHQS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh) và tương đương.
Sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ 0,7 theo quy định tại Nghị định số 25/CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 0,9 theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 1,1 theo quy định;
đ) Sĩ quan cấp Đại tá, Thượng tá; sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ chỉ huy lữ đoàn, trung đoàn hoặc Ban CHQS cấp huyện và tương đương. Sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ 0,5 theo quy định tại Nghị định số 25/CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 0,7 theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 0,9 theo quy định;
e) Sĩ quan cấp Trung tá, Thiếu tá; sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ chỉ huy tiểu đoàn và tương đương. Sĩ quan trước khi nghỉ hưu giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ 0,35 theo quy định tại Nghị định số 25/CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 0,5 theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP hoặc có hệ số phụ cấp chức vụ 0,7 theo quy định;
g) Sĩ quan cấp úy.
3. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thực hiện chế độ, chính sách đối với sĩ quan Quân đội nghỉ hưu.
QĐND
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Chính sách xem các tin, bài liên quan.