Đập Sabo - bước tiến trong công trình kháng lũ vùng cao

Tháng 4-2025, tại lưu vực suối Nặm Păm, huyện Mường La (nay là xã Mường La, tỉnh Sơn La), Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Sơn La khánh thành đập Sabo đầu tiên tại Việt Nam theo tiêu chuẩn Nhật Bản.

Đập Sabo là giải pháp công trình được áp dụng hiệu quả ở Nhật Bản và nhiều quốc gia, thường xây dựng tại thượng lưu các sông dốc, tốc độ dòng chảy lớn, giúp giữ lại bùn, đá, gỗ trôi, ngăn thiệt hại cho hạ lưu. Phó cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai Nguyễn Trường Sơn khẳng định, hệ thống này sẽ là mô hình mẫu để đánh giá hiệu quả ngăn lũ, từ đó huy động nguồn lực nhân rộng ở những khu vực có nguy cơ cao.

Đập Sabo tại xã Mường La, tỉnh Sơn La. Ảnh: THU HƯƠNG 

Theo các chuyên gia, đặc điểm địa hình miền núi dốc, chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối cùng tác động của biến đổi khí hậu làm gia tăng mưa cực đoan, lũ quét, sạt lở đất. Việc nhân rộng mô hình đập Sabo là giải pháp bền vững, giúp giảm tốc độ, sức phá hủy của dòng lũ, giữ vật cản nguy hiểm, bảo vệ hạ du, ổn định dân cư và sản xuất cho các tỉnh miền núi phía Bắc.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, các công trình thủy lợi, đê điều, hồ chứa và hệ thống phòng, chống sạt lở đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm an toàn dân cư, ổn định sản xuất và phát triển bền vững. Tuy nhiên, nhiều công trình được xây dựng từ lâu đã xuống cấp, hiệu quả giảm, nguy cơ mất an toàn hồ đập tăng cao.

Một bất cập khác là thiếu cơ chế mạnh để áp dụng khoa học, công nghệ mới trong quản lý công trình phòng, chống sạt lở; thiếu hệ thống theo dõi, giám sát tại các khu vực nguy cơ cao; dữ liệu còn phân tán, độ chính xác dự báo chưa cao. Theo đồng chí Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngành thủy lợi cần làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ số để nhận dạng, dự báo nguồn nước; đẩy mạnh ứng dụng vật liệu thân thiện môi trường, quản lý an toàn hồ, đập, đê sông, đê biển.

Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai cũng đề xuất cơ chế thu hút doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng công nghệ hiện đại vào quản lý đê điều, phục hồi rừng ngập mặn, đất ngập nước, sử dụng vật liệu bền vững, hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ thuật. Việc đồng bộ hóa giải pháp công trình, phi công trình, kết hợp công nghệ tiên tiến với quản lý bền vững sẽ giúp công trình thủy lợi phát huy tối đa hiệu quả.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước hiện có hơn 900 hệ thống thủy lợi quy mô từ 200ha trở lên, trong đó có 122 hệ thống vừa và lớn, cùng hơn 86.200 công trình các loại, gồm 6.750 hồ chứa, 592 đập dâng, 19.500 trạm bơm, 27.700 cống và gần 300.000km kênh mương. Hệ thống đê sông dài hơn 9.200km, có 1.035km kè bảo vệ và hàng nghìn ki-lô-mét bờ bao chống lũ, ngăn mặn. Các hồ chứa lớn tham gia cắt, giảm lũ cho hạ du với tổng dung tích khoảng 14,6 tỷ mét khối nước.

Ứng phó thách thức từ biến đổi khí hậu

Đồng chí Nguyễn Hoàng Hiệp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, lần đầu tiên, một quy hoạch ngành quốc gia về thủy lợi, phòng, chống thiên tai được lập đồng bộ theo không gian toàn quốc, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 847/QĐ-TTg ngày 14-7-2023). Quy hoạch đặt mục tiêu cấp đủ nước tưới cho lúa hai vụ, cây trồng cạn, chăn nuôi, tiêu thoát nước cho hàng triệu héc-ta đất nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn đặt ra nhiều thách thức. Biến đổi khí hậu khiến mưa lũ bất thường, trong khi Việt Nam còn chịu tác động từ hoạt động khai thác, chuyển nước của các quốc gia thượng nguồn.

Bộ đội Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 345 (Quân khu 2) tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc xã Y Tý, tỉnh Lào Cai bảo vệ, chăm sóc rừng đầu nguồn. Ảnh: HỒNG SÁNG 

Theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, để nâng cao hiệu quả quy hoạch và công trình phòng, chống thiên tai, cần cập nhật, điều chỉnh tiêu chuẩn thiết kế theo kịch bản khí hậu cực đoan; đầu tư công trình liên vùng, hồ chứa đa mục tiêu, đồng thời phát triển hạ tầng quản trị số, tăng cường quan trắc, cảnh báo sớm, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong mô phỏng thiên tai.

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh: “Triển khai quy hoạch này không chỉ giải quyết nhu cầu cấp bách mà còn tạo nền tảng vững chắc cho phát triển lâu dài”. Rõ ràng, quy hoạch thủy lợi và đầu tư công trình phòng, chống lũ giữ vai trò then chốt trong chiến lược giảm nhẹ thiên tai. Trước diễn biến khí hậu phức tạp, việc nâng cấp, hiện đại hóa công trình hiện có và áp dụng công nghệ tiên tiến là yêu cầu cấp thiết. Cần quy hoạch hệ thống thủy lợi liên vùng, liên lưu vực, gắn chặt với quy hoạch sử dụng đất, đô thị và phòng, chống thiên tai, đặc biệt chú trọng các khu vực xung yếu, trọng điểm lũ lụt.

Giữ rừng, điều kiện tiên quyết giảm lũ, giảm sạt lở

GS, TSKH Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, cho rằng nguyên nhân chính khiến lũ quét gia tăng là diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp. Ông lý giải: Khi đất trống đồi trọc, có tới 95% nước mưa chảy tràn, chỉ 5% thấm xuống đất; còn với rừng tự nhiên, 90% lượng nước thấm sâu, gần như không tạo lũ. Rừng tự nhiên có khả năng chống lũ, giữ nước tốt vì có nhiều tầng, nhiều loại cây, hệ rễ sâu và rộng đan chặt với nhau. Trong khi đó, rừng trồng chỉ phát huy 1/5 đến 1/2 hiệu quả của rừng tự nhiên, tùy loại cây và mức độ phát triển.

 Đập Sabo tại xã Mường La, tỉnh Sơn La. Ảnh: THU HƯƠNG  

Hiện nay, tình trạng phá rừng vẫn diễn biến phức tạp, kéo theo hệ quả trực tiếp là mất lớp thảm thực vật, khiến đất trơ trọi, dễ xói mòn, sạt lở khi mưa lớn. Ở miền núi, rừng bị tàn phá làm suy giảm chức năng giữ nước, điều hòa dòng chảy, gia tăng nguy cơ lũ ống, lũ quét. Khi đất yếu, lại chịu tác động từ hạ tầng thiếu quy hoạch, nhà ở bám sườn núi, đường giao thông, hầm cắt triền dốc, rủi ro thiên tai càng lớn. GS, TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phân tích: “Các điểm sạt lở đều là nơi đất trơ trọi, mất thảm thực vật. Xây thủy điện, phá rừng khiến đất phong hóa, giảm khả năng giữ, dẫn tới sạt lở khi mưa lớn”.

Có thể thấy, thiên tai, lũ lụt ngày càng khó lường, việc phòng ngừa, giảm nhẹ phải được coi là nhiệm vụ chiến lược, cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị. Các cấp, các ngành phải chủ động quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo đảm an toàn thiên tai; di dời dân cư khỏi vùng nguy hiểm, đầu tư công nghệ dự báo, cảnh báo sớm, tổ chức diễn tập ứng phó. Đặc biệt, quản lý, bảo vệ và phục hồi rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ phải là giải pháp nền tảng, kết hợp với huy động nguồn lực xã hội hóa, nâng cao nhận thức cộng đồng. Chỉ khi đó, chúng ta mới hạn chế đến mức thấp nhất những mất mát về người và tài sản do mưa lũ, thiên tai gây ra.

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Xã hội xem các tin, bài liên quan.