Hạn chế từ hạ tầng chống chịu thiên tai 

Chỉ trong vòng chưa đầy một tháng (cuối tháng 9, đầu tháng 10-2025), 3 trận bão liên tiếp (Ragasa, Bualoi, Matmo) liên tiếp đổ bộ vào nước ta, gây ra hiện tượng lũ chồng lũ đặc biệt lớn trên diện rộng ở nhiều tỉnh phía Bắc, vượt lịch sử. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến ngày 15-10, các đợt thiên tai vừa qua đã khiến 238 người chết và mất tích, 367 người bị thương, hơn 258.000 ngôi nhà bị hư hỏng và 555.000ha lúa, hoa màu bị thiệt hại. Ước tính thiệt hại kinh tế lên đến hơn 33.500 tỷ đồng, tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2024.

Mặc dù công tác chỉ đạo ứng phó thiên tai, hỗ trợ khắc phục hậu quả đã được Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai nhanh chóng, kịp thời, tuy nhiên, theo đồng chí Nguyễn Hoàng Hiệp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, phương án ứng phó với lũ lịch sử ở một số địa phương còn bị động; hồ chứa thủy điện nhỏ chưa được quản lý, theo dõi, giám sát chặt chẽ từ khâu xây dựng, quản lý hồ sơ, vận hành... dẫn đến sự cố hồ Bắc Khê 1 ở Lạng Sơn bị vỡ do lưu lượng lũ về hồ tăng nhanh; tình trạng ngập sâu, chia cắt, cô lập tại các khu vực vùng sâu, vùng xa và những đô thị lớn như: Thái Nguyên, Bắc Ninh... ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác tiếp cận hiện trường, chỉ huy, chỉ đạo ứng phó...

LLVT Quân khu 1 hỗ trợ nhân dân tỉnh Thái Nguyên hộ đê chống lũ, tháng 10-2025. Ảnh: PHÚ SƠN 

Đặc biệt là năng lực chống chịu trước thiên tai của các công trình cơ sở hạ tầng còn bất cập khi xảy ra tình huống lũ đặc biệt lớn, vượt lịch sử. Cùng với đó, năng lực theo dõi, giám sát thiên tai, cứu hộ-cứu nạn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Phương tiện, trang thiết bị phục vụ công tác ứng phó thiên tai, cứu hộ-cứu nạn còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa... Về nguyên nhân chính do thiên tai diễn ra dồn dập, đặc biệt khốc liệt, mang nhiều yếu tố bất thường, vượt mức lịch sử, xảy ra trên diện rộng, lũ chồng lũ, gây thiệt hại lớn về người và tài sản; mức độ đầu tư cho cơ sở hạ tầng phòng, chống thiên tai như hệ thống đê điều, hồ đập, dự báo, cảnh báo... hạ tầng công cộng và nhà dân chưa đủ sức chống chịu với sức tàn phá của thiên tai, lũ lụt.

Thực tế cho thấy, đợt mưa lớn bởi hoàn lưu bão số 11 vừa qua khiến lưu vực sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam chìm trong biển nước. Chưa đầy 24 giờ, lượng mưa tại Thái Nguyên lên tới 450-500mm, khiến mực nước sông Cầu dâng cao kỷ lục, vượt đỉnh lũ lịch sử năm 2024 hơn 1m. Hai năm liên tiếp, con sông hiền hòa chảy qua các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh trở thành dòng nước hung dữ, nhấn chìm hàng chục nghìn ngôi nhà, cánh đồng, tuyến đường trong biển nước...

Giải quyết “nút thắt” thoát nước đô thị và vùng chậm lũ

Hiện nay, hệ thống tiêu thoát nước ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nhất là Thái Nguyên, chủ yếu dựa vào tiêu tự chảy theo độ dốc địa hình. Không có trạm bơm cưỡng bức, mực nước trong thành phố hoàn toàn phụ thuộc vào mực nước sông. Khi nước sông dâng vượt báo động 3, dòng chảy trong đô thị bị đảo chiều, nước không thoát ra được mà dâng ngược vào trong đô thị.

Trước đây, vùng tả sông Cầu từng là vùng chậm lũ tự nhiên, có tác dụng giảm áp cho đô thị mỗi khi mưa lớn. Tuy nhiên, khi địa phương đắp đê kiên cố, khu vực này đã mất đi vai trò điều tiết. Không gian thoát lũ bị thu hẹp, dòng chảy bị bó hẹp trong lòng sông khiến chỉ cần một trận mưa cực đoan là hệ thống “vỡ trận”.

GS, TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: “100% hệ thống thoát nước của Thái Nguyên là tiêu tự chảy. Trong khi mưa thiết kế cho đô thị chỉ khoảng 310mm trong hai ngày thì đợt lũ vừa qua, lượng mưa phổ biến 150-350mm chỉ trong 7 giờ. Với tốc độ đô thị hóa nhanh mà hệ thống thoát nước không được nâng cấp, ngập lụt là điều không thể tránh khỏi”.

Cùng với đó, việc đô thị hóa tràn ra các bãi sông, lấn chiếm hành lang thoát lũ; lại xây dựng trên đất yếu khiến sức chứa nước tự nhiên của lòng sông ngày càng suy giảm. Những cánh đồng, ao hồ vốn là “bộ đệm sinh thái” bị san lấp khiến khả năng thấm và tiêu nước giảm mạnh. Đi dọc bờ sông Hồng qua địa bàn Hà Nội hay các đô thị lớn ở phía Bắc, phía Nam, miền Trung dễ nhận ra thực trạng này, không kể xây nhà "chèn lên" cả dòng chảy, diện tích thoát lũ. Theo GS, TS Đào Xuân Học, không chỉ đô thị mà vùng nông thôn trung du cũng diễn ra cảnh tương tự. Dòng chảy sông suối trước sự lấn chiếm của con người ngày càng bị bó hẹp; hệ thống kênh mương nội đồng xuống cấp; cống tiêu tắc nghẽn; công trình bơm nước nhỏ lẻ không đủ công suất khiến điệp khúc mưa-ngập diễn ra ở nhiều nơi. Những khu vực mưa lớn tiêu úng kém đã ngập sâu nhiều ngày. Nếu không sớm có những giải pháp tổng thể và căn cơ, phù hợp với từng khu vực thì tình trạng mưa lũ, ngập úng sẽ luôn xảy ra ở rất nhiều nơi.

Tăng cường công trình phòng, chống thiên tai

GS, TS Đào Xuân Học nhấn mạnh: “Thoát nước đô thị và phòng, chống thiên tai không thể tách rời. Cần cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Xây dựng và Bộ Nông nghiệp và Môi trường, phân định rõ trách nhiệm quy hoạch, đầu tư, vận hành”. Ông dẫn ví dụ tại Đồng bằng sông Cửu Long, nơi việc thiết kế thoát nước phải đồng thời tính đến mực triều, đặc điểm dòng chảy và dữ liệu thủy văn từ thượng nguồn, những thông tin chỉ ngành thủy lợi nắm giữ.

Trường hợp tỉnh Thái Nguyên, việc xây dựng đê kiên cố trước đây nhưng không tính đến năng lực tổng thể của hệ thống thủy lợi đã làm “đóng” mất vùng chậm lũ khiến tình trạng ngập càng trầm trọng khi mưa lớn.

Theo các chuyên gia, bài học từ đợt lũ đầu tháng 10 cho thấy hệ thống phòng, chống thiên tai ở các tỉnh miền núi phía Bắc đang “vượt ngưỡng” thiết kế. Mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất ngày càng khốc liệt hơn do biến đổi khí hậu, trong khi nhiều công trình phòng lũ vẫn dựa trên dữ liệu 20-30 năm trước. Do đó, cần nhanh chóng cập nhật tần suất và cường độ mưa cực đoan, điều chỉnh lại tiêu chuẩn thiết kế đê, hồ, cống theo thực tế mới. Bên cạnh giải pháp công trình, cần tăng cường giải pháp phi công trình như cảnh báo sớm, quy hoạch vùng ngập lũ, bảo vệ rừng đầu nguồn, phục hồi hệ sinh thái lòng sông. Nhiều chuyên gia đề xuất thí điểm “hành lang thoát lũ sinh thái”, kết hợp giữa cây xanh, hồ điều hòa và vùng trũng có thể ngập tạm thời, vừa bảo vệ đô thị vừa giảm áp lực cho đê điều. Đặc biệt, phải quản lý chặt không gian sông ngòi, bãi bồi, bãi sông, ngăn chặn tình trạng lấn chiếm xây dựng, khai thác cát trái phép. Việc quy hoạch đô thị cần gắn với bản đồ rủi ro thiên tai, tránh mở rộng vào vùng trũng thấp, vùng thường xuyên ngập.

Đồng thời, để tăng khả năng cắt lũ cho hạ du hiện nay, cơ quan chức năng rất cần nghiên cứu, bổ sung những giải pháp để nâng cao năng lực đối với các hồ chứa ở thượng nguồn. Hay nâng cao năng lực thoát lũ ở những vị trí xung yếu của các con sông từ quá trình nâng cao các tuyến đê hiện nay, cũng như mở rộng không gian thoát lũ dọc những khu vực sông qua đô thị. 

(còn nữa)

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Xã hội xem các tin, bài liên quan.