Bao đời nay, người dân các tỉnh miền núi có tập quán sinh sống, canh tác rải rác ở khu vực bìa rừng, ven suối, thung lũng, lưng chừng núi. Bởi thực tế, đất canh tác ở vùng cao thường nằm dọc theo các con suối, thung lũng, do địa hình chia cắt nên khó khăn trong việc tìm kiếm khu vực đất bằng phẳng để canh tác, sinh sống. Khu vực ven suối cũng là nơi đất đai màu mỡ, giúp cho việc canh tác nông nghiệp, nhất là trồng lúa nước trở nên dễ dàng hơn. Nhưng cũng từ đây, biết bao nước mắt đã rơi vì lũ quét, san phẳng nhiều bản làng ven sông, suối.  

Cần quy hoạch khu dân cư hợp lý

Có dịp trở lại thôn Làng Nủ (xã Phúc Khánh, tỉnh Lào Cai), nơi từng xảy ra thảm họa lũ quét tháng 9-2024, chúng tôi nhận thấy đây là một điểm dân cư nằm ven suối. Người dân trong làng kể rằng, cả trăm năm nay, con suối Vằng Cuồng dưới chân núi Con Voi này luôn hiền hòa, cung cấp nước sạch, cá tôm nuôi sống người dân Làng Nủ. Ấy vậy mà rạng sáng 10-9-2024, sau một tiếng động lớn, hàng triệu khối bùn và nước không biết từ đâu đã tràn theo con suối ấy, chỉ trong vài phút đã cuốn phăng nhà cửa, tài sản, cướp đi sinh mạng của nhiều người dân. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực giúp đỡ của bộ đội, Khu tái định cư thôn Làng Nủ đã được gấp rút xây dựng trên đỉnh đồi Sim, cao ráo, an toàn, bảo đảm đầy đủ nước sinh hoạt cho người dân.

Theo Thiếu tướng Hoàng Ngọc Dũng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 2, các ngôi làng khu vực ven suối, ven đồi luôn tiềm ẩn nguy cơ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, đồng thời cũng là nỗi trăn trở thường trực của cấp ủy, chính quyền địa phương. Nhưng do đặc điểm địa hình và tập quán sinh sống, người dân không có sự lựa chọn nào khác. Ngoài ra, việc thiếu quy hoạch, công tác rà soát, quản lý đất đai của cấp ủy, chính quyền địa phương chưa được thực hiện bài bản, khoa học cũng góp phần vào việc người dân vẫn sống ở những khu vực có nguy cơ cao này. 

Cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS tỉnh Điện Biên hỗ trợ nhân dân xã Mường Pồn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên khắc phục hậu quả mưa lũ, tháng 8-2024. Ảnh: HỒNG SÁNG 

Công tác di dân khỏi vùng có nguy cơ cao xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất là hết sức cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khóa XV, quy hoạch các vùng dân cư để tránh sạt lở và lũ quét là vấn đề rất tốn kém, cần nhiều nguồn lực. Bởi người dân không chỉ sống ở các vùng ven sông, suối mà còn ở các vùng dưới chân núi. Để di dời người dân đến nơi đủ điều kiện sống, nghĩa là an toàn nhưng phải có kế sinh nhai, có đất cho người dân sản xuất là nhiệm vụ không đơn giản. Nhiều khi nhìn các vùng thung lũng, núi đá, đồi đất biết nguy hiểm nhưng vẫn có người dân sinh sống. Vì dời đi chỗ khác thì họ không có đất để sản xuất. Do đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần lên quy hoạch. Nhất là hiện nay chúng ta đang cho ý kiến về Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn. Nhưng vấn đề quan trọng chính là phải có nguồn lực để thực hiện.

 Về việc này, GS, TS Trần Đình Hòa, Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đề xuất: “Cần luật hóa vùng cấm cư trú, tức là những khu vực có nguy cơ sạt lở, lũ quét cao phải được khoanh vùng, đưa vào quy hoạch, công khai với người dân và không được phép xây dựng nhà ở mới tại đó. Việc này không mới trên thế giới, nhưng Việt Nam hiện vẫn thiếu hành lang pháp lý đủ mạnh để buộc thực hiện”. 

Các chuyên gia cũng cho rằng, những khu dân cư nguy cơ thấp hơn, có thể xây dựng kè, đê ngăn lũ, ngăn xói lở. Giải pháp có thể làm ngay là xây dựng nhà cộng đồng chống thiên tai bằng bê tông cốt thép, nơi này sẵn sàng trở thành địa điểm lưu trú của người dân khi có nguy hiểm. Cùng với đó, việc di dời, xây dựng nhà ở cho đồng bào miền núi, những khu vực có nguy cơ cao hoàn toàn có thể tích hợp vào chương trình phát triển nhà ở, nhà ở xã hội mà Nhà nước đã và đang triển khai. Vì bản chất chính sách nhà ở xã hội là dành cho người có thu nhập thấp, đối tượng yếu thế trong xã hội. Nhưng thực tế hiện nay, chính sách nhà ở xã hội đang được thực hiện ở khu vực thành phố mà chưa thấy nhắc đến các khu dân cư tập trung cho đồng bào miền núi, thầy giáo, cô giáo vùng sâu, vùng xa.

Nan giải bài toán nguồn lực

Thực tế cho thấy, thiệt hại do thiên tai gây ra đối với các tỉnh miền núi như: Nghệ An, Thanh Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên... và cả TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã vượt quá khả năng tự xoay xở của các địa phương. Theo thống kê, giai đoạn 2023-2025, các tỉnh: Tuyên Quang, Thái Nguyên, Điện Biên có khoảng 8.000 hộ cần di dời khẩn cấp ra khỏi khu vực nguy cơ cao. Nhưng do ngân sách eo hẹp, mỗi năm chỉ bố trí được vài chục hộ. Các chương trình hỗ trợ theo Quyết định số 590/QĐ-TTg ngày 18-5-2022 phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng: Thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, khu rừng đặc dụng giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Ngoài khó khăn về kinh phí thì quỹ đất ở và đất sản xuất cũng là thách thức lớn. Không ít hộ sau khi được tái định cư một thời gian lại quay về nơi ở cũ vì thiếu nước sinh hoạt, thiếu đất sản xuất.

Hay ở Nghệ An, do địa hình đồi núi dốc, mỗi khi mưa lớn kéo dài, các xã miền Tây Nghệ An lại đối mặt với nguy cơ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, nhất là địa bàn các xã: Tương Dương, Mỹ Lý, Mường Típ, Chiêu Lưu, Keng Đu... Đồng chí Vi Văn Sơn, Chủ tịch UBND xã Mường Típ cho biết, tối 21-7-2025, người dân bản Ta Đo, xã Mường Típ phải hứng chịu trận lũ thứ hai chỉ sau 6 ngày. Hai trận lũ quét trong vòng một tuần đã khiến 9 ngôi nhà trong bản bị thiệt hại hoàn toàn, 2 nhà bị hư hỏng nặng, 8 hộ có nguy cơ bị sạt lở phải di dời, ở tạm nhà người quen. Nếu về lại chỗ ở cũ, nguy cơ mất an toàn rất cao, nhưng di dời, tái định cư cho các hộ dân rất khó thực hiện do trên địa bàn không có mặt bằng để bố trí. Xã đã kiến nghị tỉnh khảo sát, xây dựng khoảng 700m kè bờ sông Nậm Mộ phạm vi bản Ta Đo và 800m kè dọc hai bên khe Buộc để định cư tại chỗ cho các hộ dân, tuy nhiên chưa có kết quả.

Từ thực tế chúng tôi thấy, công tác quy hoạch, sắp xếp, bố trí dân cư ở các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ ống, lũ quét không chỉ là giải pháp tình thế trước mắt mà là chiến lược lâu dài để bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Việc hình thành những khu dân cư an toàn, hạ tầng đồng bộ, gắn với sinh kế ổn định sẽ giúp người dân yên tâm gắn bó với nơi ở mới, giảm tình trạng quay lại vùng nguy hiểm. Để làm được điều đó, cần sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương, huy động tối đa các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, xã hội hóa, hợp tác quốc tế. 

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Xã hội xem các tin, bài liên quan.