Chủ trương đúng đắn, sáng tạo

Cuối năm 1974, trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường miền Nam, tình hình quốc tế, trong nước, Hội nghị Bộ Chính trị (từ ngày 30-9 đến 8-10-1974) đã xác định quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh đến mức phát triển cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam”[1]. Đến cuối tháng 3-1975, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị nhận định: “Về chiến lược, về lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không cứu vãn được tình thế của ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở Tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược của quân và dân ta đã bắt đầu”[2].

Để tăng cường sự lãnh đạo và chỉ huy cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975, đặc biệt là bảo đảm cho Chiến dịch Tây Nguyên với trận mở màn then chốt Buôn Ma Thuột giành thắng lợi, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định cử các đồng chí: Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng, Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Lê Ngọc Hiền - Phó tổng Tham mưu trưởng và một số cán bộ của Bộ Tổng Tham mưu vào chiến trường, hình thành bộ phận đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ tổng Tư lệnh ở chiến trường miền Nam (mang mật danh Đoàn A75).

Dấu ấn của Bộ Thống soái tối cao

Sau một thời gian chuẩn bị tích cực, chu đáo về mọi mặt, Chiến dịch Tây Nguyên đã diễn ra và giành thắng lợi vang dội. Sau thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu làm việc không kể ngày đêm, tập trung trí tuệ, sức lực, kinh nghiệm và bản lĩnh của mình để kịp thời ban hành, hạ đạt những mệnh lệnh, chỉ thị tối ưu nhất cho chiến trường. Chiều 25-3-1975, ngay sau khi nhận được tin Quân đoàn 2 đã tiến vào nội thành Huế, cơ hội giải phóng nhanh Đà Nẵng mở ra, Bộ tổng Tư lệnh quyết định hạ lệnh cho Quân đoàn 2 và Khu 5 khẩn trương tổ chức lực lượng phối hợp tiến công giải phóng Đà Nẵng, đồng thời lệnh các bộ phận của Quân đoàn 1 lật cánh từ Đường 1 lên Tây Nguyên, thần tốc hướng thẳng vào mục tiêu trọng điểm Sài Gòn, không qua Đà Nẵng. Để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ của các sư đoàn chủ lực Tây Nguyên, ngày 26-3, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ký quyết định thành lập Quân đoàn 3[3] và giao nhiệm vụ cho Quân đoàn kết hợp cùng Khu 5 giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa cùng quân cảng Cam Ranh (nếu thuận lợi); ngay sau đó, tìm mọi cách nhanh nhất đưa lực lượng quay trở lại Tây Nguyên, từ Tây Nguyên hành quân vào Đông Nam Bộ tham gia trận quyết chiến dứt điểm Sài Gòn.

Xe tăng của Quân Giải phóng húc đổ cánh cổng tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu 

Cũng trong ngày 26-3, tại Hà Nội, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp triệu tập cuộc họp của Bộ tổng Tư lệnh chỉ thị cho Trung tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà chỉ được phép dứt điểm Đà Nẵng trong vòng 3 ngày, tính từ ngày nổ súng là ngày 27-3. Để nắm nhanh nhất, chi tiết nhất sự vận động khẩn trương, liên tục của chiến trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thành lập Tổ thường trực giúp việc Tổng Tư lệnh chỉ đạo tác chiến trong đợt tiến công chiến lược lần này. Tổ gồm những người có kinh nghiệm tham mưu tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu do đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tổng Tham mưu trưởng làm Tổ trưởng. Mỗi ngày bốn lần, Đại tướng trực tiếp nghe tổ báo cáo, đề đạt ý kiến.

Quán triệt quyết tâm của Tổng Tư lệnh, tại Mặt trận Quảng Đà, sau đúng 3 ngày đêm chiến đấu, ngày 29-3-1975, Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng Đà đã chỉ huy quân dân trên chiến trường đánh tiêu diệt và làm tan rã hơn 10 vạn tên địch tại căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của đòn tiến công chiến lược thứ hai[4].

Trong bối cảnh tình thế chiến trường đang rất thuận lợi, ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị tổ chức phiên họp mở rộng bàn về đòn chiến lược thứ ba tại Sài Gòn - đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Thay mặt Quân ủy Trung ương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tổng quát tình hình chiến trường và khẳng định: Từ đầu tháng 3 đến nay, từ Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng đến cực Nam Trung Bộ, quân dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hai quân đoàn chủ lực I và II của địch; thu và phá hủy trên 40% cơ sở vật chất hậu cần của chúng; giải phóng một địa bàn rộng lớn gồm 12 tỉnh và gần một nửa số dân ở miền Nam. Âm mưu co cụm chiến lược của địch bị phá sản; chính quyền và ngụy quân Sài Gòn đang lâm vào tình trạng hoang mang, bế tắc cao độ. Tuy vậy, địch vẫn ngoan cố lập tuyến phòng ngự từ xa ở Phan Rang, đồng thời cố gắng thu thập tàn quân, chấn chỉnh các đơn vị còn lại, điều chỉnh thế bố trí nhằm tăng cường khả năng phòng thủ khu vực Sài Gòn - Gia Định; chúng hy vọng sẽ ngăn chặn và đẩy lùi được cuộc tiến công của ta, giữ thế cầm cự cho tớị mùa mưa. Về phía ta, sau trận Huế, Đà Nẵng đã bắt đầu chuyển sang tổng tiến công chiến lược. Thời cơ lớn đã xuất hiện. Tổng Tư lệnh đề nghị cần khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến giải phóng Sài Gòn theo hướng: thực hiện bao vây chiến lược ở phía Đông và phía Tây Sài Gòn, sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch[5].

Sau khi thảo luận, Bộ Chính trị khẳng định: “Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế của ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Gia Định đã chín muồi”[6]. Như vậy, từ cuộc họp lịch sử này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân Việt Nam đã chính thức bắt đầu.

Sức mạnh vượt trội của Quân đội nhân dân Việt Nam

Để tập trung, thống nhất cao độ sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định, ba Ủy viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng được cử làm đại diện của Bộ Chính trị tại mặt trận. Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định do các đồng chí: Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh; Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, làm Chính ủy. Các Phó tư lệnh chiến dịch: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Trọng Tấn; Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị: Lê Quang Hòa; Quyền Tham mưu trưởng chiến dịch: Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền. Ngoài ra, nhiều cán bộ các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, các tổng cục, các quân chủng, binh chủng được điều vào chiến trường giúp Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các mặt công tác.

Có thể thấy, bộ máy chỉ đạo, chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã tập trung đầy đủ quyền hạn, năng lực điều hành để vừa trực tiếp chỉ huy chiến dịch, vừa chỉ đạo các chiến trường phối hợp. Đây là một nét tiêu biểu, độc đáo, phát huy được sự chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực tiễn, bảo đảm chắc thắng cho trận quyết chiến chiến lược. Lần đầu tiên trong một chiến dịch, có 3 Ủy viên Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch. Một Phó tổng Tham mưu trưởng làm Phó tư lệnh chiến dịch đại diện chỉ huy cánh Đông, hai Phó tư lệnh Miền trực tiếp phụ trách cánh Tây Nam. Trong quá trình chuẩn bị và thực hành Chiến dịch Hồ Chí Minh, tình huống chiến đấu, chiến dịch và chiến lược biến động liên tục trên từng hướng tiến công. Trên cơ sở tình hình thực tế, Bộ tư lệnh Chiến dịch một mặt thường xuyên báo cáo tình hình và nhận sự chỉ đạo của Bộ Thống soái tối cao, mặt khác chủ động, kiên quyết tranh thủ thời cơ, nhạy bén, sáng tạo trong triển khai nhiệm vụ chiến đấu và tổ chức lực lượng thích hợp trên từng mục tiêu then chốt.

Ngày 13-4-1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng - Tư lệnh Chiến dịch điện (số 51/Tk) báo cáo Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đề nghị đặt tên Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị đồng ý với đề nghị của Đại tướng Văn Tiến Dũng[7]. Quyết định của Bộ Chính trị đã tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào Chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu. Trước đó, trong lúc các đơn vị gấp rút triển khai kế hoạch hành quân, ngày 7-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chính trị và Bộ tổng Tư lệnh ra Mệnh lệnh (Điện số 157/TK) cho các cánh quân: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”[8].

Thực hiện chủ trương và quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta với vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tập trung lực lượng áp đảo, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ”, tiến hành Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, các lực lượng tham gia chiến dịch với quân số lớn chưa từng có cùng một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công nội đô Sài Gòn. Thực tế, Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư (30-4-1975), sau hơn 4 ngày khai triển. 

Đại thắng mùa Xuân 1975 là thắng lợi vĩ đại nhất, trọn vẹn nhất, kết thúc 21 năm chiến tranh lâu dài, gian khổ, đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[9]. Thắng lợi đó có vai trò đặc biệt to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại tá, PGS,TS Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự


[1] Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng ngày 10-10-1974, về Kết luận đợt 1 Hội nghị Bộ Chính trị, lưu Viện Lịch sử quân sự, ký hiệu TK/1294.83.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36 (1975), Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.95.

[3] Gồm 3 sư đoàn 10, 320, 316 của Tây Nguyên.

[4] Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Chiến dịch Tây Nguyên được coi là đòn tiến công chiến lược thứ nhất.

[5] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.257.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CT   QG, Hà Nội, 2004, tr. 95.

[7] 19 giờ ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị điện (số 37/tk) gửi Mặt trận, toàn văn như sau: “Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Điện do Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng ký.

[8] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.286.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.471.

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng xem các tin, bài liên quan.