Trịnh Duy Sơn là người sáng tác nhiều thơ tình, tổng số trên 400 bài thơ tình, mà tập “Thơ tình Trịnh Duy Sơn” chỉ là một phần trong số đó. Các nhà thơ chuyên nghiệp tôi quen thân ít ai có được số lượng thơ tình nhiều như thế. Không chỉ hiểu tác giả là người đa tình, mà phải khẳng định “hệ số đa tình khá cao” khi ta biết được hoàn cảnh ra đời của những bài thơ, có khi thực tế chỉ là cái cớ cho trái tim ông rung động, rồi trí óc tưởng tượng, liên tưởng… và sự nhạy cảm của thi nhân cho bài thơ ra đời.

Nhà thơ Trịnh Duy Sơn

Người đa tình không chỉ yêu nhiều khi trẻ, mà tuổi yêu của họ kéo dài tận già, nghĩa là già rồi vẫn yêu và hoài niệm về những mối tình đã qua. Tập thơ này tác giả viết phần lớn sau khi về hưu và không ít bài viết ở tuổi “cổ lai hy” có tên là “Thơ tình Trịnh Duy Sơn”. Tập thơ là cái cớ để tác giả hồi tưởng những ký ức, kỷ niệm theo dọc cuộc đời.

“Tôi ngồi lặng giữa hoàng hôn

Ngắm bao xác lá gửi hồn vào không

Hỏi trời - trời thả mênh mông

Hỏi chiều - chiều gửi nỗi lòng đơn côi

Hỏi em - em ở đâu rồi

Thôi đành độc thoại - mình tôi với chiều”.

  (Độc thoại chiều)

Nội dung độc thoại – mình nói với mình - là điều gì vậy khi “nghe con tim gọi tiếng yêu cuối mùa”? Thì ra là chuyện tình yêu, độc thoại với mình và để gửi lại người mình từng yêu trong quá khứ, như bông sen nở giữa đầm mà yêu đương trắc trở, với lời khuyên gửi vào trong gió: “Thôi đừng trách cứ gì nhau / Yêu thương gửi lại trăng sao cho trời”!

Gửi lại là cái cớ để hồi tưởng về những cuộc tình, bắt đầu là những nụ hôn thời trai trẻ: “Anh hôn lên cánh hoa đào / Nồng nàn như thể hôn vào môi em”. Rồi trong hạnh phúc tình yêu, nhìn thấy thiên nhiên cũng đang yêu nhau, mây hôn khóm trúc, mưa hôn lên mái tóc dừa… tác giả tìm cách lý giải nguồn gốc của tình yêu đôi lứa: “Ơi tình yêu – phép nhiệm màu / Bắt đầu từ có, bắt đầu từ không”…

 

Nhưng trong “Thơ tình Trịnh Duy Sơn” không nhiều hồi tưởng về tình đẹp của “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”, mà trù mật về nỗi đau về tình. Thứ nhất là đau về tình yêu đơn phương, yêu mà không được đền đáp, “Chỉ xin em nén nhang lòng / Thắp lên cho khói vẽ vòng… đơn phương”! Đau thứ hai là yêu trong xa cách. Điều này từ xưa đến nay các thi nhân bộc lộ nhiều rồi, nay Trịnh Duy Sơn bổ sung vào cũng lắm. Nào là:

Chúng mình ở quá xa nhau

 Lá trầu chưa thắm, buồng cau đã già

Trái tim chớ có thầm thì

Càng thêm xa xót những khi đắng lòng

Cho dù ngày nhớ đêm mong

Cũng như bong bóng xà phòng cả thôi.

(Gửi xa xôi).

Rồi thì:

Một mình chợt nhớ chợt quên

Phải lòng cả những lối mềm cỏ hoa

Dặn mình đừng nhớ người ta

Mà chênh chao giữa bao la cõi người

Một mình ta với ta thôi

Sao trong mơ lại hai người hỡi em?

  (Một mình)

Nhưng đau nhất là nỗi đau thất tình. Đã biết bao người đời chết vì thất tình, nhưng nhà thơ này không chịu chết, mà biến nỗi đau thành thơ:

Hết rồi, bình quý đã tan

Rượu bay ngược gió, hoa tàn theo mây

Ta giờ nêm chật đắng cay

Nghe tim vụn vỡ từ ngày mất nhau…

 (Từ ngày mất nhau)

Đau, rồi tự an ủi:

Một khi đã tắt lửa tình

Tro tàn nguội lạnh, phận mình mình lo

Còn mong chi một con đò

Đã rời khỏi bến trước giờ hoàng hôn!

 (Còn mong chi nữa)

Đau, muốn giấu không cho ai biết:

Dù ăn nhầm ớt

Ta cũng khen là ngọt

Để người đời

Không thể biết mình cay!

 (Nhủ lòng)

Đau, muốn giấu mà không giấu được, buộc thốt lên thành lời:

Đau từ sâu thẳm đau ra

Đau từ sáng sớm đau qua đêm trường

Một mai rời cõi vô thường

Nỗi đau biết gửi về phương trời nào!

 (Đau)

Có nhà thơ chuyện nghiệp, viết các thể thơ tự do thì hay, nhưng viết lục bát thường trúc trắc vần điệu, khó đọc. Trái lại, Trịnh Duy Sơn là con người bản năng, ngẫu hứng, phóng túng, nhưng ở tập thơ này, lại thật chỉn chu khi làm thơ lục bát, không để, hoặc rất ít sai phạm đáng tiếc, như chữ thứ 2 câu bát thanh trắc, chữ thứ 4 thanh bằng và chữ thứ 6 của câu bát vần với chữ thứ 8 của câu ấy (điều mà Truyện Kiều luôn tránh).

Tuy nhiên tính phóng túng, ngẫu hứng đó lại thể hiện trong ý tứ và cách dùng chữ, có khi khiến câu thơ tự nhiên với “ngôn ngữ chuyên ngành”, làm bạn đọc mỉm cười thú vị.

Kho yêu trời đất cho ta

Nửa đời ta đã chi ra hết nhiều

Bây giờ còn chẳng bao nhiêu

Gặp em ta vẫn quyết liều một phen

Dẫu còn chỉ một đồng keng

Quyết tiêu bằng hết chẳng đem về trời

Ta mang thế chấp ta rồi…

Ngày ngày ta chỉ biết ngồi... làm thơ

Thơ ta dù vẫn ngu ngơ

Xin em đừng có nghi ngờ tình ta

Kho yêu em kiểm rồi mà

Trao em chìa khóa nữa là... trắng tay!

Bài thơ chi chít những từ thuộc phạm trù tài chính, thủ kho như kho yêu, chi ra, đồng keng, thế chấp, kiểm, chìa khóa…

Nhiều khi tác giả tự giễu mình, làm người đọc khó nén cười:

Tôi điên điên, em điên điên

Rủ nhau xuống động ngồi thiền canh thâu

Gió sương nhuộm trắng mái đầu

Chắp tay chẳng biết nguyện cầu điều chi.

Mở lòng xin phật từ bi

Con nhìn con cũng có khi còn nhầm!

  (Điên điên)

Nghe tin Trịnh Duy Sơn đã có lần tu tại gia làm tôi nhớ đến chuyện nhà văn Chu Lai tập ngồi thiền. Hai người đều là bạn tôi, nên tôi hiểu tính cách của họ: Cả hai đều phóng túng, yêu tự do và thích làm điều mình thích. Không biết Chu Lai ngồi thiền có thành công không, chứ Trịnh Duy Sơn thì thất bại hoàn toàn như anh đã thú nhận:

Ta tu vớ vẩn tại gia

A Di Đà Phật – Thích Ca nhiệm màu

Vì đời còn lắm bể dâu

Tu nhà – chẳng được đi đâu khỏi nhà!

Hết Nam mô lại Di Đà…

Ta tu chiếu lệ khó mà bình an

Đường đời mấy đỗi quan san

Để con tu hú phải than suốt mùa

Có ai đội lễ lên chùa

Cho ta xin một lá bùa trừ…mê…!

(Tu tại gia)

Có những vùng đất xuất hiện nhiều trong “Thơ tình Trịnh Duy Sơn”, đó là vùng Kinh Bắc quê hương và Đà Lạt, Phan Thiết, Vũng Tàu… và nước Úc xa xôi, nơi tình cảm gia đình và ký ức tình yêu được lưu giữ. Đọc thơ ông ở những địa bàn này, ta còn thấy được ngoài đậm tình ra, tác giả là người nặng nghĩa. Có ai đó bảo “Thơ là người”, tôi thấy điều đó rất đúng với Trịnh Duy Sơn: Người có nội năng dư thừa, khát yêu, khát thơ và đã trải lòng mình lên hàng trăm trang thơ chan chứa tình yêu.

Trong tập thơ này thể thơ lục bát được ông sử dụng nhiều nhất và khá thành công, nhưng những thể thơ khác như thất ngôn, ngũ ngôn… ông cũng không hề bỡ ngỡ và có những bài hay.

Em thắp lửa cho lòng ta ấm lại

Qua bao ngày nguội lạnh tàn tro

Lại yêu thương, mơ mộng, hẹn hò

Lại thắc thỏm đợi chờ, hy vọng.

Không phải biển mà sao lòng dậy sóng

Không phải rừng mà rộn rã tiếng chim

Ta đang hát hay là em đang hát

Mà tiếng đàn rung mãi con tim?

(Em thắp lửa)

Còn nhiều, nhiều lắm những câu thích, bài thích, phần trích dẫn của tôi chỉ là ví dụ và có khi chưa thật điển hình. Và tôi tin, khi đọc xong tập thơ tình dày dặn này, không bạn đọc nào thất vọng, thậm chí có người thốt lên rằng: “Thơ lão này khá thế, mà sao mình bây giờ mới đọc?”!

Thơ Trịnh Duy Sơn dung dị và nồng ấm khi viết về tình yêu và tình đời. Đến với thơ từ rất sớm nhưng phải đến “Thơ Tình Trịnh Duy Sơn” anh mới dần khẳng định được mình. Hy vọng bạn đọc sẽ tìm được trong thơ anh những nghĩ suy và trải nghiệm về cuộc đời. (Nhà thơ Trương Nam Hương)

Trịnh Duy Sơn viết báo, viết truyện ký, làm thơ từ những ngày đầu bước vào quân ngũ. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nên anh ít có điều kiện gửi bài cho các báo, đài… mà phần lớn thơ văn anh viết ra chỉ để đọc cho đồng đội nghe hoặc in trong các tập sách truyền thống của Sư đoàn 312 – Sư đoàn Chiến thắng Anh hùng. Thời hậu chiến lại phải lo mưu sinh nên anh cũng không có nhiều thời gian giao lưu, chia sẻ với các bạn thơ.

Nhưng đã yêu thơ thì không dễ gì dứt bỏ. Dù nay đã ở độ tuổi “xưa nay hiếm” anh vẫn tìm đến thơ để rồi có tập “Thơ tình Trịnh Duy Sơn”– Đây mới là những vần thơ da diết về tình yêu, tình đời được tác giả giấu kín trong trái tim “Trẻ mãi không già” như nhiều bạn bè từng nói. (Nhà thơ Lê Minh Quốc).

Lời giới thiệu tập “Thơ tình Trịnh Duy Sơn - Nhà thơ VƯƠNG TRỌNG

 

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.