Bởi ông là tác giả của "Tiến quân ca", bài hát được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam). Kể từ ấy, Quốc ca đã vang lên trong ngày 17-8-1945 ở quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, rồi sáng 2-9-1945 ở Quảng trường Ba Đình trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc "Tuyên ngôn Độc lập".

Kể từ ấy đến nay, biết bao nhiêu thế hệ công dân Việt, thuộc tất cả các lứa tuổi, không ai không thuộc nằm lòng "Tiến quân ca", như tiếng gọi của non sông Việt và cũng là của chính tấm lòng mình. Bởi nó là một sức mạnh tinh thần không gì đo đếm được, không có bút mực nào tả xiết được, nói lên sức mạnh vô biên, bất tận của dân tộc Việt Nam trước mọi thử thách trong hàng nghìn năm lịch sử.

Các đại biểu xem triển lãm trong khuôn khổ Hội thảo “Thế giới nhạc, họa, thơ của Văn Cao” tổ chức ngày 8-11-2023 tại Hà Nội. Ảnh: HOÀI PHƯƠNG 

Theo di nguyện của Văn Cao, gia đình nhạc sĩ đã hiến tặng bản quyền "Tiến quân ca" cho Tổ quốc và nhân dân Việt Nam-một nghĩa cử cao cả mà mỗi công dân Việt như chúng ta cần được biết.

Như vậy là chỉ riêng "Tiến quân ca" đủ làm nên một tên tuổi, một sự nghiệp lớn của Văn Cao trong thế giới âm nhạc. Thế nhưng đây chỉ là một điểm nhấn. Bởi sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao còn phải ngược lên 5 năm trước 1945, trong tư cách một tác gia lớn trong thế giới tân nhạc, với "Buồn tàn thu", "Thiên thai", "Bến xuân", "Thu cô liêu", "Cung đàn xưa", "Đàn chim Việt"... mà chỉ riêng mỗi tác phẩm cũng đủ làm vinh quang cho bất cứ ai.

Còn sau "Tiến quân ca" là một sự nghiệp âm nhạc càng lớn hơn, trên một hành trình dài với rất nhiều nguồn mạch, tỏa ra nhiều hướng, soi vào đấy-là cả một giàn giao hưởng của đời sống kháng chiến, với "Bắc Sơn" và "Chiến sĩ Việt Nam", "Công nhân Việt Nam"; với "Làng tôi" và "Ngày mùa"; với "Hải quân Việt Nam" và "Không quân Việt Nam", với "Trường ca sông Lô" và "Tiến về Hà Nội"; và với "Ca ngợi Hồ Chủ tịch"... Tất cả tràn ngập âm hưởng hào hùng, lạc quan, giàu sức khám phá, khả năng tiên tri về công cuộc kháng chiến và hành trình dân tộc. Sự nghiệp âm nhạc vĩ đại của Văn Cao còn nối dài đến năm 1975 với tác phẩm "Mùa xuân đầu tiên" như một sự đón đợi kỳ diệu niềm vui đoàn tụ của hai miền Nam-Bắc, dẫu phải đến thập niên 1990 công chúng mới được biết đến.

Bên cạnh tư cách một nhạc sĩ lớn, nói Văn Cao còn là nói đến một nhà thơ lớn-mà tôi không phải phân vân khi chọn từ này, bởi ông là tác giả của không ít bài thơ "làm tổ" được trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ, ít ra là thế hệ tôi. Không nói đến chất thơ thấm đẫm trong nhiều nhạc phẩm thời tân nhạc trước năm 1945, sau một số bài thơ rất được người đọc nhớ và thuộc như: "Quê lòng", "Đêm mưa", "Ai về Kinh Bắc", "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế", Văn Cao bỗng rất ấn tượng trong bài "Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc", ra đời đúng thời điểm tháng Tám năm 1945, ghi nhận rất kịp thời thảm cảnh hai triệu người dân Việt chết đói; để cùng với những trang văn trong "Địa ngục" của Nguyên Hồng và bộ ảnh của Võ An Ninh làm nên một bảo tàng chứng tích tội ác của chủ nghĩa thực dân và ơn đổi đời của Cách mạng Tháng Tám... Là trường ca "Những người trên cửa biển" với câu mở đầu “Sinh ra tôi đã có Hải Phòng” mà người dân Hải Phòng hiếm ai không nhớ; tựa như nhớ về Bà Huyện Thanh Quan trong bài "Qua đèo Ngang". Bên cạnh nhiều bài lẻ, Văn Cao còn có cả một tập thơ có tên "Lá" viết âm thầm trong những năm tháng khó khăn.

Văn Cao còn một sự nghiệp rất đáng ghi nhận về hội họa, trong tư cách một họa sĩ, ngay từ trước năm 1945, với các bức tranh có tên "Thái Hà ấp đêm mưa", "Cuộc khiêu vũ của những người tự tử" trong một triển lãm nghệ thuật năm 1943. 

Bấy nhiêu điều về một nghệ sĩ lớn, với đóng góp trên nhiều lĩnh vực thơ văn, nhạc, họa; và ở lĩnh vực nào cũng đạt đỉnh cao, hoặc để lại dấu ấn sâu đậm như Văn Cao.

Giáo sư PHONG LÊ

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.