Đấy là tôi nhớ đến Tùng, người bạn tôi đã quen hơn 20 năm, một người đàn ông yêu làng Mông Phụ như yêu từng mạch máu trong huyết quản của mình. Tùng không phải người của ngôi làng nổi tiếng bậc nhất Việt Nam này, đó là nơi mẹ anh sinh ra. Kỷ niệm ấu thơ miền quê ngoại yên bình, thuần hậu, cổ kính mãi mãi không bao giờ rời xa Tùng. Năm 21 tuổi, Tùng xuất khẩu lao động sang Đức, anh đã rong ruổi, vật lộn ở nhiều nước châu Âu, rồi qua Canada và bây giờ cả gia đình Tùng gồm vợ chồng và hai đứa con đang định cư ở Mỹ, đất nước mà số tuổi còn kém tuổi cái cổng làng Mông Phụ 200 năm, nhưng giàu có nhất thế giới. Thi thoảng trên Facebook, Tùng post vài tấm ảnh mà tôi chắc rằng những câu chữ rưng rưng trong cái status đi kèm không diễn tả hết nỗi nhớ niềm yêu của Tùng với chốn cũ làng xưa. Một cái cổng đắp bằng đất của nhà ai đó lơ thơ buông vài dây mướp hoa vàng hoang hoải. Bà cụ hàng nước mà bức tường đá ong xỉn cũ và những bông đậu biếc tím ngát phía sau dường như càng làm cho ánh mắt cụ thêm khắc khoải. Cây cầu Vang được xây bằng đá ong nối hai làng Phụ Khang và Mông Phụ giờ thiếu bước chân người, rêu đã lên xanh, trầm mặc soi bóng xuống dòng sông Tích... Và tôi tin khi nào nửa dòng máu của làng còn chảy trong huyết quản của Tùng thì anh sẽ còn nhớ làng, còn post thật nhiều hình ảnh khác nữa về làng Mông Phụ.
 |
Minh họa: QUANG CƯỜNG. |
Tôi sống ở xứ Đoài hơn 20 năm, đã hàng trăm lần đến với làng Mông Phụ. Đôi lúc tôi nghĩ, những nơi cần đến đã đến, những gì cần biết thì đã tìm hiểu, nhưng rồi khi đọc được hàng loạt bài viết của nhà văn Hà Nguyên Huyến, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng-những người con của ngôi làng này-tôi mới càng thấm thía cái sự biết/hiểu của mình về đất và người nơi đây chỉ ít ỏi như một chiếc lá so với tầng tầng tán xanh trên cây đa cổ thụ bên cổng làng. Lần gần đây nhất, tôi dẫn nhóm bạn từ Điện Biên xuống, từ TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Thanh Hóa ra... lên thăm làng cổ. Mặc dù được nghe danh của làng và trước chuyến đi họ đã tìm hiểu ít nhiều nhưng khi vừa đặt chân bên cổng làng, họ không giấu được cảm xúc vỡ òa, thích thú. Các bạn tôi người mười tám đôi mươi, người ngoại ngũ tuần đầu hai thứ tóc cứ ríu rít tạo dáng, giành nhau chỗ chụp ảnh, trong trẻo, hồn nhiên như thêm một lần thơ trẻ. Khi ấy đang vụ gặt, chúng tôi bước trên những sợi rơm óng vàng vừa qua một vài nắng, mùi thơm nồng đặc trưng của ruộng đồng xộc lên khứu giác càng làm đôi chân vui bước.
Bà Dương Thị Lan, cháu dâu đời thứ 8 của quan Đốc học Đỗ Doãn Chính, vị tiến sĩ được khắc tên trên văn bia Quốc Tử Giám, kể cho chúng tôi về ngôi nhà cổ được xây dựng từ năm 1780 mà bấy lâu bà thừa kế, chăm sóc, gìn giữ. Hơn 20 năm trước, ngôi nhà cổ kính, bề thế này từng xuống cấp, dột nát trầm trọng. Khi ấy, ông Đỗ Doãn Dương (chồng bà Lan) còn tại thế nghĩ lung lắm. Chả lẽ lại phá dỡ ngôi nhà để xây mới, mà việc tu sửa một ngôi nhà cổ thì tốn kém? Nhưng rồi, vợ chồng ông bà đều quyết tâm bảo tồn nguyên vẹn ngôi nhà hương hỏa. Khi ấy, đôi vợ chồng nghèo dốc hết vốn liếng, rồi vay mượn để mua nguyên vật liệu, thuê thợ giỏi về sửa nhà. Nhìn thấy chồng cặm cụi gắn từng viên ngói vỡ, bà càng hiểu chỉ những người sinh ra, lớn lên trong ngôi nhà này mới cảm nhận hết những giá trị, những yêu thương ẩn chứa trong từng đồ vật. Nên sau này ông Dương khuất núi rồi, bà Lan vẫn ngày ngày chăm sóc ngôi nhà của gia đình chồng như nắm giữ một viên ngọc. Và khi nào nhắm mắt về với tổ tiên thì bà sẽ trao lại cho con cháu. Lần nào bà Lan kể về cụ Đốc học Đỗ Doãn Chính cũng với chất giọng nhẹ nhàng nhưng đầy tự hào, thành kính. Cụ Chính là một vị quan nổi tiếng liêm khiết, cụ cũng là một thầy đồ vang danh trong vùng. Cụ rất nghiêm khắc nên học trò của cụ không chỉ thành đạt mà điều quý hơn là họ đều sống cuộc đời tử tế, không hổ danh là những môn sinh cửa Khổng sân Trình. Dòng dõi khoa bảng của cụ Đỗ Doãn Chính nối dài đến nay là đời thứ 10. Trong dòng họ có nhiều người nổi tiếng mà ngay cổng nhà bà Lan là gia đình nhà văn Đỗ Doãn Quát (theo vai vế, bà Lan là cháu dâu, gọi nhà văn Đỗ Doãn Quát là chú). Cả ba bố con ông Quát là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi đã vài lần đến nhà ông Quát để nghe ông kể chuyện làng. Khi tôi hỏi về những người con nổi tiếng của ông là nhà thơ Đỗ Doãn Phương và nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, nhà văn chỉ tủm tỉm cười.
Ngôi nhà cổ gồm bảy gian hai dĩ có niên đại hơn 300 năm của gia đình ông Hà Hữu Thể là một tác phẩm kiến trúc tiêu biểu của làng Việt cổ Bắc Bộ. Tường nhà được xây bằng đá ong, một loại vật liệu xây dựng độc đáo của Đường Lâm, nền lát gạch nung, toàn bộ cột, cửa, rui, mè được làm từ các loại gỗ tốt, kết nối với nhau bằng hệ thống mộng, không sử dụng bất cứ một chiếc đinh nào, ngói lợp là loại ngói ri. Tổng diện tích ngôi nhà gồm cả sân vườn chừng hơn 400 mét vuông. Tường hoa, bể nước, gian bếp với cối giã gạo, cối xay thóc, cối xay ngô, thúng, mủng, giần, sàng được treo trên tường càng làm cho ngôi nhà như lùi xa với hiện tại. Cô bạn tôi đứng vào cái cối xay thóc, khi cô nắm tràng xay và bắt đầu xoay cái cối, tôi như không thấy cô nhà báo áo hồng, váy nâu, tóc vàng từng lọn phủ xuống bờ vai thanh tân, mà trước mắt tôi là cô thôn nữ tóc đuôi gà, yếm sồi, váy thâm đang tất tả xay thóc để kịp bữa cơm sớm mai cho gia đình. Hiện nay, ông bà và con cháu sinh hoạt ngủ nghỉ ở căn nhà kế bên, còn toàn bộ khuôn viên của ngôi nhà cổ được giữ gìn để phục vụ du khách tham quan. Trên sân gạch bày la liệt các loại chum lớn bé, mùi tương thơm đượm không gian, ông Thể cho biết lúc nào nhà cũng có khoảng 1.000 lít tương phục vụ du khách và cung cấp cho các nhà hàng, các hộ kinh doanh trong và ngoài khu vực Sơn Tây. Ông Thể bảo đã 13 đời nhà ông sống ở nơi này, dù qua nhiều thăng trầm nhưng đời nối đời chưa một ai trong dòng họ có ý định nhượng lại ngôi nhà tổ tiên cho một chủ nhân khác. Lời ông làm tôi thấy vị chè hình như ngọt hơn nơi đầu lưỡi, nước để nấu chè được bà Thể lấy từ cái giếng đá ong trong vườn. Cái giếng bao đời vẫn ăm ắp nước, sáng trong như mặt gương, sáng như tâm của những người trong gia đình họ Hà này hướng về nguồn cội của họ.
Nhà văn Hà Nguyên Huyến là người cả đời kể chuyện làng. Mỗi lần được hòa mình vào cái không khí chầm chậm, cổ xưa của làng cổ, được thăm gia đình ông, tôi như lạc vào cánh rừng, khu vườn của “Thung mơ”, “Hạc trắng”, “Lá thuốc dấu”, “Ván cờ trong vườn quýt”... đẹp quyến rũ, mê mị. Ông Huyến đã viết hàng trăm bài báo về ngôi làng của ông từ quá khứ tới hiện tại và cả những trăn trở mai này, về người thác, người còn với bao suy nghiệm, yêu thương. Bây giờ, khi đã nghỉ hưu, ông lại quay về làng với nghề làm tương, viết lách và học viết chữ Nho. Những con chữ của ông trên giấy điều thực sự là một tác phẩm nghệ thuật vừa phóng khoáng vừa nghiêm cẩn, mỹ miều. Tôi biết ông cũng như bao người con của làng còn nặng lòng lắm với những gì tổ tiên, ông cha để lại. Tất cả họ, những người con Mông Phụ, nổi danh hay lẫn vào đại chúng, bằng cách riêng của mỗi người cùng nâng niu, gìn giữ, trao truyền những báu vật hữu hình và vô hình của làng cho thế hệ mai sau.
Bạn bè tôi, khi dời làng Mông Phụ, dời Đường Lâm, mỗi người đều có những cảm xúc riêng, nhưng họ đều xác quyết với tôi một điều rằng họ đã được thanh lọc, sống thật chậm, trọn vẹn trong miền xưa cũ, yên bình. Mỗi gương mặt người, mỗi câu chuyện, từng phiến đá ong, từng nếp nhà... nơi đây đã vương vào họ những sợi tơ mong nhớ, những ước nguyện thêm một lần trở lại. Còn tôi, chắc chắn rằng tôi sẽ còn đến ngôi làng này thật nhiều để cảm nhận cái mạch mát lành, đẹp đẽ, ẩn chứa nhiều điều kỳ bí vẫn đang nối dài, chảy mãi trong ruột đất, trong lòng người làng Mông Phụ.
Tùy bút của QUANG MINH