Thoái vốn phải có lộ trình để không gây khó khăn cho doanh nghiệp thoái vốn và doanh nghiệp nhận đầu tư.

Những kết quả kiểm toán Tập Đoàn Diện lực Việt Nam EVN mới đây cho thấy thực trạng rất đáng lo ngại trong hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của ngành này. EVN đã đầu tư trên 2.100 tỷ đồng vào 4 lĩnh vực nhạy cảm và ngoài ngành kinh doanh chính như bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính chiếm 3,27% vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó, EVN cũng đầu tư kém hiệu quả vào lĩnh vực viễn thông gây thua lỗ lớn. Số nợ phải trả của EVN tính đến hết năm 2010 lên đến trên 200.000 tỷ đồng, chiếm gần 80% tổng nguồn vốn.

Lỗ ở EVN cho thấy nguyên nhân cơ bản là Tập đoàn này đã đầu tư ngoài ngành quá nhiều trong khi năng lực quản lý có hạn. Qua đây cũng khẳng định mệnh lệnh thoái vốn đầu từ ngoài ngành kinh doanh chính đối với các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước là đúng đắn và cần thiết.

Và mệnh lệnh này phải được thực hiện quyết liệt, càng sớm càng tốt, nếu không muốn thấy vốn liếng của Nhà nước tiếp tục bị phung phí trong khi cả xã hội phải chắt chiu, thắt lưng buộc bụng để có tiền đầu tư phát triển.

Tuy nhiên, để làm  tốt việc thoái vốn, cũng như để thực hiện có hiệu quả tiến trình tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước, cần có một lộ trình quyết liệt.

Quyết liệt và thận trọng

“Đầu tư dàn trải đã là một cái sai. Nếu xử lý thoái vốn không cẩn thận thì chúng ta lại vấp phải một cái sai mới. Việc thoái vốn cần thiết phải làm như là một trong những công việc để tái cấu trúc DNNN. Thoái vốn phải có lộ trình để không gây khó khăn cho doanh nghiệp mà mình đầu tư vào; Xử lý nợ nần ra sao? Chia nợ phải gánh như thế nào…” – Nhận xét trên đây của nguyên Bộ trưởng Kế hoạch – Đầu tư Trần Xuân Giá, cũng phản ánh những trăn trở của các nhà quản lý và của cả các doanh nghiệp đã “trót’ đầu tư ra ngoài ngành kinh doanh chính của mình.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, thoái vốn phải đặt trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế được tập trung vào các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Hiện nay, Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư, thì có đến 1.300 DN 100% vốn nhà nước; số cổ phần chiếm khoảng 50-70% trong hàng nghìn doanh nghiệp khác. Như vậy, Nhà nước là một nhà đầu tư rất lớn, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế, quốc dân.

Chính phủ hoạt động đa ngành, từng danh nghiệp cũng hoạt động đa ngành, cho nên, với tư cách là một chủ đầu tư thì các đơn vị của Nhà nước không chỉ cạnh tranh với bên ngoài mà còn cạnh tranh lẫn nhau dẫn đến chồng chéo trong đầu tư.

Những đường thoái vốn khả thi

TS Nguyễn Đình Cung – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đưa ra 2 cách để thoái vốn. Theo đó, cách thứ nhất là bán cổ phần ra bên ngoài cho những nhà đầu tư khác (có thể là tư nhân hoặc nước ngoài) chứ không phải là bán cho DNNN khác. “Cách này cũng phải tùy thuộc vào từng lĩnh vực, phải xem xét cẩn thận. Ví dụ, những lĩnh vực như nhà hàng, khách sạn, du lịch, những lĩnh vực tư nhân phát triển, sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, chế biến lương thực, thực phẩm… bán ra ngoài là tốt” – ông Cung nói.

Cách thứ hai, hiện tại, Nhà nước có 5 ngân hàng thương mại, trong khi các tổng công ty, tập đoàn cũng có ngân hàng hoặc có cổ phần trong các ngân hàng, các tập đoàn phải chuyển cổ phần nắm giữ trong các ngân hàng về cho các NHTM của nhà nước.

Tương tự, đối với ngành bảo hiểm, chứng khoán, những ngành tài chính… nếu chưa bán được ra ngoài, mà những ngành này chưa nên bán, thì làm như thế để cho các tập đoàn này tách hẳn ra khỏi lĩnh vực tài chính, những ngành chạy theo bong bóng thị trường, bất động sản. Nhà nước cũng đang có trong tay một số tập đoàn, Tổng công ty chuyên doanh bất động sản. Tất cả các hoạt động bất động sản không liên quan gì đến công ty chuyên doanh này phải chuyển về cho công ty bất động sản. EVN Telecom chuyển sang cho Viettel cũng là làm theo cách này.

Ảnh minh họa: internet

TS. Nguyễn Đình Cung phân tích: “Việc chuyển đổi này không khó khăn gì cho DN. Tất cả chỉ là một động tác chuyển trên sổ sách (cổ phần, phần góp vốn) chứ không phải thay đổi về cơ cấu hoạt động sản xuất của DN. Ở đây chỉ thay đổi quyền sở hữu vốn, giống như chuyển nhượng cổ phần trên thị trường chứng khoán. Nếu làm được việc này thì đã tách biệt, cơ cấu lại đầu tư của tập đoàn và tập đoàn chỉ chuyên doanh vào sản xuất ngành nghề của họ. Việc chuyển giao nội bộ chỉ hoàn toàn mang tính sổ sách, tất nhiên cần phải công khai cho xã hội biết về ý đồ, cách thức thực hiện…”.

Theo cách làm vừa nêu, sẽ cơ cấu lại danh mục đầu tư của Nhà nước, dễ quản lý hơn, chuyên doanh hơn, phát huy hiệu quả tốt hơn và quản lý chủ sở hữu cũng dễ dàng hơn. Các doanh nghiệp cũng không lạm dụng được việc huy động vốn để cho vay trong nội bộ.

Thoái vốn theo cách nào?

Nhiều người lo ngại, trong lúc thị trường chứng khoán đang đi xuống, nếu DNNN thoái vốn thì phải bán rẻ cổ phần của mình hoặc không ai mua, hoặc mất tiền, vốn của Nhà nước…

Tuy nhiên, theo phân tích của chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, DNNN có thể mất nhưng toàn dân thì không mất gì cả. Chính phủ phục vụ quyền lợi đất nước chứ không phải chỉ phục vụ quyền lợi của chính phủ hay của tập đoàn kinh doanh. Nếu ta phục vụ quyền lợi của toàn dân thì Chính phủ có mất mát vốn trong doanh nghiệp mà nhân dân làm ăn phát lên thì cả đất nước sẽ phát triển.

“Các DNNN giữ những lĩnh vực kinh doanh mà không làm được thì phải để cho người khác làm tốt hơn chứ đừng nghĩ rằng cứ ôm đấy để cho nó chết… Nhiệm vụ của DNNN là giữ cho đất nước phát triển chứ không phải cố thủ những việc anh đang bị thua lỗ” – ông Bùi Kiến Thành nói

Cùng quan điểm này, TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, cần đặt ra mục tiêu không phải tìm kiếm giá trị bằng tiền ngắn hạn (bán để lấy giá cao) mà bán để chuyển sang một cách thức quản lý, sử dụng nguồn lực này hiệu quả hơn và tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn cho xã hội. Nhìn dài hạn, chiến lược cho xã hội chứ không phải nhìn giá trị tài chính cho chủ đầu tư (nhà nước). Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư cần nhìn toàn cục giá trị chiến lược và giá trị xã hội mang tính chiến lược. “Trong bối cảnh thị trường hiện nay thì không thể bán cao được, vẫn theo giá thị trường nhưng phải chấp nhận giá thấp, khuyến khích người mua trong bối cảnh người mua rất ít”

Vấn đề đặt ra là phải chọn được người mua, không phải là bán đại trà. Hoặc chúng ta có phân loại vừa có phần đại trà vừa phải tìm được nhà đầu tư chiến lược, tìm được người đầu tư thực sự chứ không phải là người đầu cơ, chụp giật.

Khi đã tìm được nhà đầu tư phải ký hợp đồng để họ mang đến những thứ gì cần thiết cho mình (công nghệ, kiến thức quản lý, thị trường…). Chúng ta cần tìm những DN lớn, nhà đầu tư lớn trong nước và nhất là đầu tư nước ngoài. “Muốn vậy phải thay đổi pháp luật về đầu tư nói chung để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư muốn tham gia vào quá trình này”- TS Cung nói.

Còn ông Trần Xuân Giá thì cho rằng: “Phải có qui chế rõ ràng trong việc thoái vốn để không làm thất thoát tài sản quốc gia. Đến thời điểm này vẫn chưa có văn bản nào như vậy nên doanh nghiệp vẫn lúng túng”.

Như vậy, các doanh nghiệp nhà nước cần phải chấm dứt việc đầu tư ra ngoài ngành kinh doanh chính của mình là một mệnh lệnh không thể trì hoãn.

Cũng cần nhấn mạnh thêm, sở dĩ nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư quá nhiều ngoài ngành, dẫn đến chúng ta phỉa tìm biện pháp khắc phục cũng có nguyên nhân từ chính sách. 

Do vậy, để thực hiện có kết quả lộ trình này thì chính sách phải đi trước một bước. Nếu chính sách chưa có để giải quyết được các khúc mắc, khó khăn như đã đề cập thì rất dễ đẩy tiến trình này vào quanh co, bế tắc. Mặt khác, cả chính sách và việc thực thi các biện pháp thoái vốn cũng phải nhằm mục tiêu hoặc có những biện pháp phòng ngừa nguy cơ lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm cản trở, trì níu tiến trình sắp xếp lại các DNNN.

Thực tế kiểm điểm hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thời gian qua càng cho thấy phải quyết tâm cơ cấu lại khu vực kinh tế này. Chỉ có như vậy, vai trò chủ đạo, chức năng là công cụ định hướng, dẫn dắt nền kinh tế của DNNN mới phát huy tác dụng.

Theo VOV