Trước những diễn biến của cục diện chiến trường, sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng chủ lực và LLVT các địa phương, để giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo công tác quản lý và bảo đảm trang bị, kỹ thuật cho các lực lượng, ngày 10-9-1974, Tổng cục Kỹ thuật được thành lập. Như vậy, lần đầu tiên kể từ khi Quân đội ta ra đời, ngành kỹ thuật quân sự đã được xây dựng thành một hệ thống khá hoàn chỉnh và đồng bộ từ cấp chiến thuật, chiến dịch đến cấp chiến lược. Ngay sau ngày thành lập, Tổng cục Kỹ thuật đã chủ trì, phối hợp cùng quân và dân ta tổ chức vận chuyển tới các chiến trường một khối lượng vũ khí, trang bị gấp 1,6 lần so với tổng khối lượng của 13 năm trước đó. Nhờ thế đã tạo được lượng dự trữ về vũ khí, trang bị trên từng chiến trường để chuẩn bị cho tác chiến lớn. Cụ thể, từ ngày 13-12-1974 đến 6-1-1975, ngành kỹ thuật đã bảo đảm 1.170 tấn vũ khí các loại cho Quân đoàn 4 cùng lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch giải phóng tỉnh Phước Long. Đây là trận được xem như một đòn "trinh sát chiến lược", giúp cho Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đánh giá và kết luận khả năng giải phóng miền Nam…

Lực lượng pháo binh của ta trước giờ xuất kích. Ảnh tư liệu 


Đặc biệt là sau chiến thắng Tây Nguyên, Bộ Chính trị hạ quyết tâm phải hoàn thành kế hoạch giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, các quân đoàn chủ lực được lệnh nhanh chóng tiến hành các chiến dịch lớn như Huế, Đà Nẵng để áp sát Sài Gòn. Việc tổ chức bảo đảm kỹ thuật cho cơ động chiến lược đường dài với số lượng quân số đông cùng nhiều xe máy, vũ khí trang bị là một nhiệm vụ rất nặng nề, nhưng đây là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần quyết định thắng lợi. Ngoài sự chi viện lớn của cơ quan kỹ thuật cấp chiến lược, lực lượng bảo đảm kỹ thuật cấp chiến dịch cũng đã được tổ chức chặt chẽ, dốc sức cùng lực lượng kỹ thuật các sư đoàn, các đơn vị binh chủng bảo đảm đầy đủ, kịp thời về vũ khí, đạn dược cho bộ đội vừa cơ động, vừa đánh địch. 

Thực hiện mệnh lệnh và kế hoạch tác chiến của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật đã tập trung mọi nỗ lực, huy động đến mức cao nhất khả năng hiện có của mình để bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các lực lượng tham gia chiến dịch. Quân đoàn 1 được bổ sung 64 cán bộ và nhân viên kỹ thuật đã khẩn trương kiểm tra tình trạng kỹ thuật và sửa chữa 100% vũ khí trang bị trước khi quân đoàn cơ động vào Đồng Xoài. Quân đoàn 2 được tăng cường 39 cán bộ, nhân viên kỹ thuật, cùng với trang, thiết bị kỹ thuật để nâng cấp các trạm sửa chữa. Tổng cục Kỹ thuật còn tăng cường hơn 100 cán bộ, nhân viên bảo đảm đủ vũ khí, trang bị kỹ thuật cho Quân đoàn 2 tác chiến liên tục trong nhiều ngày. Lực lượng của Tổng cục Kỹ thuật cũng đã cùng với lực lượng của quân đoàn kiểm tra, sửa chữa bảo đảm hệ số kỹ thuật đạt 98% với súng bộ binh, súng cối 93%, pháo mặt đất 96%. Do mới thành lập nên lực lượng kỹ thuật của Quân đoàn 3 chủ yếu do Tổng cục Kỹ thuật chi viện. Tổng cục đã kịp thời bổ sung cho Quân đoàn 1.236 tấn đạn, 158 tấn vũ khí, các xe công trình, trang thiết bị và dụng cụ sửa chữa phục vụ tác chiến. Quân đoàn 4, do tình hình khó khăn chung của chiến trường Nam Bộ nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu. Ngoài việc trực tiếp bảo đảm vũ khí-đạn, nhất là đạn hỏa lực, Tổng cục Kỹ thuật còn phối hợp với Cục Hậu cần - Kỹ thuật Miền củng cố hai xưởng OX1, OX2, tổ chức các đội sửa chữa cơ động, trang bị xe công trình phục vụ các đơn vị của quân đoàn tham gia chiến dịch.

Đến giữa tháng 4-1975, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch đã đến vị trí tập kết trên các hướng theo kế hoạch, khối lượng đạn dược bảo đảm cho chiến dịch lên đến gần 60.000 tấn, trong đó có 24.000 tấn vũ khí trang bị đã đến tay bộ đội. Bộ Quốc phòng còn thành lập Căn cứ Hậu cần-Kỹ thuật liên hợp ở Cam Ranh (Khánh Hòa) do Tổng cục Kỹ thuật chủ trì để thu gom, dồn dịch và sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật bảo đảm cho các đơn vị. Khi các chiến dịch phát triển chiến đấu, lực lượng của Tổng cục Kỹ thuật, của Bộ tư lệnh Miền và của các quân binh chủng luôn bám sát bộ đội, kịp thời bảo đảm cho máy bay, tên lửa, vũ khí, phương tiện, trực tiếp chiến đấu và bảo đảm kỹ thuật cho các đơn vị. Tính chung từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 4-1975, Tổng cục Kỹ thuật đã huy động hơn 2.000 lượt cán bộ, nhân viên, gần 3.000 lượt xe quân sự, cùng hơn 8.000 xe của Bộ Tư lệnh Đoàn 559 và các địa phương tổ chức vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Từ công tác bảo đảm kỹ thuật chu đáo, kịp thời trong các chiến dịch mùa Xuân 1975 đã giúp các đơn vị nâng cao hiệu quả tác chiến, góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại chung của dân tộc.

MAI CHU ANH