II - NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỚN CỦA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Mặt trận Điện Biên Phủ là trung tâm điểm của kế hoạch tấn công của ta trong Đông Xuân, trung tâm điểm của cuộc chiến tranh Đông Dương bước vào mùa Xuân 1954. Nó là một cuộc thử thách ác liệt, một cuộc rèn luyện lớn đối với bộ đội ta. Qua cuộc thử thách đó, bộ đội ta đã học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu và đã trưởng thành một cách rõ rệt.

Sau đây là mấy bài học kinh nghiệm lớn:

A - BÀI HỌC THỨ NHẤT: Phương châm chiến dịch "đánh chắc tiến chắc" là một nhân tố quan trọng quyết định sự thắng lợi của chiến dịch.

1. Phương châm "đánh chắc tiến chắc" và phương châm "đánh nhanh giải quyết nhanh".

Sau khi địch mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và sau chiến thắng Lai Châu của ta, Tổng quân ủy triệu tập hội nghị cán bộ bàn phương châm và kế hoạch đánh Điện Biên Phủ. Lúc đó theo báo cáo thì binh lực của địch có độ 12 tiểu đoàn, bố trí tương đối phân tán, công sự dã chiến; nhìn chung thì phía đông cũng như phía tây rất sơ hở, địch lại bị cô lập về đường bộ. Về phía ta thì bộ đội đã trải qua chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự, tinh thần chiến đấu rất cao, trình độ chiến thuật, kỹ thuật tiến bộ, sức khỏe khá, trang bị mới được tăng cường, lần này ra trận lại có trọng pháo và có cao xạ pháo phối hợp.

Trước tình hình đó, Tổng quân ủy đề ra 2 phương châm và 2 kế hoạch: một là đánh nhanh giải quyết nhanh, hai là đánh chắc tiến chắc. Toàn thể hội nghị thống nhất ý kiến là nên đánh nhanh giải quyết nhanh. Tất cả mọi người đều phấn khởi, quyết tâm tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ trong một trận. Lúc đó, tư tưởng chủ quan khinh địch trong hội nghị rất nặng, Tổng quân ủy đã ra sức chỉnh đốn tư tưởng sai lầm đó, nhưng cuối cùng Tổng quân ủy cũng đồng ý với phương châm và kế hoạch đánh nhanh giải quyết nhanh.

Sau hội nghị, để tranh thủ thời gian và để giữ bí mật, ta chủ trương dùng bộ đội để kéo pháo vào trận địa, không cần làm đường cho ôtô chạy. Theo báo cáo thì đường không dốc lắm và chỉ cần độ 2 ngày, nhưng thực tế thì dốc rất cao, vực sâu, súng nặng, ta phải dùng hơn một đại đoàn bộ binh kéo trong 7 đêm liền mà súng vẫn chưa vào hết trận địa.

Lúc đó, theo những tài liệu chắc chắn mới thu được thì địch tình có nhiều điểm rõ hơn trước và khác trước. Phía tây không phải sơ hở như trước vì địch mới đóng thêm 2 cứ điểm, phía bắc cũng vậy, vì đồi Độc Lập trước chỉ là một vị trí tiền tiêu nay được tăng cường thành cứ điểm 1 tiểu đoàn. Phía nam cũng vậy vì Hồng Cúm trước là một cứ điểm này được tổ chức thành một tập đoàn cứ điểm nhỏ, có sân bay và pháo binh riêng, có thể cùng Mường Thanh yểm hộ lẫn cho nhau, còn phía đông thì vẫn là nơi địch mạnh hơn cả.

leftcenterrightdel
Nhiều loại vũ khí, khí tài hiện đại của Pháp, trong đó có không ít loại mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy hoặc thu được trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu: TTXVN

Trước tình hình địch và tình hình kéo pháo vào trận địa như vậy, Tổng quân ủy nhận thấy đánh nhanh thì không chắc thắng. Căn cứ vào chỉ thị của Trung ương là đánh phải nhất định thắng, Tổng quân ủy ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công, kéo pháo trở ra, rút bộ đội và dân công ra, đổi phương châm đánh nhanh giải quyết nhanh thành phương châm đánh chắc tiến chắc và tiến hành mọi công tác chuẩn bị để thực hiện phương châm mới.

2. Thay đổi phương châm là một quyết định rất chính xác và là một quyết tâm rất lớn.

Lúc đó quân địch ở Điện Biên Phủ có 13 tiểu đoàn, bố trí thành nhiều tập đoàn cứ điểm nhỏ trong một tập đoàn cứ điểm lớn, công sự đã hoàn thành, có phi cơ, pháo binh và cơ giới yểm hộ chặt chẽ. Đó là một kẻ địch mạnh.

Về ta thì tuy binh lực tập trung, trang bị tăng cường, trình độ chiến thuật và kỹ thuật, trình độ tư tưởng có tiến bộ hơn trước, nhưng ưu thế của ta là ưu thế tương đối, bộ đội ta lại chưa có kinh nghiệm đánh công kiên lớn, đánh tập đoàn cứ điểm, có trọng pháo và cao xạ pháo phối hợp.

Tình hình như vậy mà quyết định phương châm đánh nhanh giải quyết nhanh là không đúng, là chủ quan khinh địch, là không phù hợp với tình hình thực tế địch, ta. Về vấn đề này, Tổng quân ủy xin phụ trách.

Tình hình như vậy, muốn đánh thắng thì nhất định không thể đánh nhanh giải quyết nhanh, mà chỉ có thể đánh tiêu diệt địch dần dần, biến ưu thế tương đối của ta thành ưu thế tuyệt đối, rồi tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch. Vì vậy, thay đổi phương châm là một quyết định rất chính xác.

Thay đổi phương châm còn là một quyết tâm rất lớn.

Lúc đó, tư tưởng bộ đội đã được chuẩn bị về cách đánh nhanh, bộ binh đã bố trí, pháo binh đã có một số vào trận địa; nếu rút ra thì tư tưởng bộ đội sẽ hoang mang, lực lượng của ta có thể bị tổn thất trong khi rút, đồng thời tất cả mọi công tác chuẩn bị đều phải bắt đầu làm lại, do đó những khó khăn về cung cấp, đường sá, thời tiết sẽ tăng lên, v.v... Tổng quân ủy đã cân nhắc kỹ, đã nhận rõ ý nghĩa lớn lao của chiến dịch lịch sử này, nhận rõ trách nhiệm của mình trước toàn quân, toàn dân, toàn Đảng, cho nên đã kiên quyết khắc phục mọi khó khăn để thay đổi phương châm, nhằm bảo đảm cho chiến dịch được toàn thẳng.

3. Một vấn đề có liên quan đến việc thực hiện phương châm: quyết định đánh toàn bộ phía đông trong giai đoạn 2, có phải là nắm vững phương châm đánh chắc tiến chắc không? Hay là quá trình độ của bộ đội?

Trả lời: quyết định đó hoàn toàn đúng, vì đánh chắc tiến chắc không phải là cứ đánh từng điểm một, mà có thể đánh nhiều điểm cùng một lúc, tùy theo tình hình cụ thể địch, ta, miễn là bảo đảm chắc thắng.

Vì địch có tất cả 5 tiểu đoàn (kể cả ngụy), ta tập trung 6 trung đoàn bộ binh và toàn bộ hỏa lực của pháo binh. Với ưu thế binh hỏa lực như vậy, với trận địa tấn công đã được xây dựng chu đáo, ta hoàn toàn có khả năng giải quyết toàn bộ khu vực phía đông Mường Thanh.

Thực tế, ta đã giải quyết rất nhanh các cứ điểm D, E, C1.

Sở dĩ đợt 2 không hoàn thành là vì mũi thọc sâu vào 210 không có chỉ huy và chủ yếu là đơn vị đánh đồi A không hoàn thành nhiệm vụ.

Về mũi thọc sâu vào 210, đại đội làm nhiệm vụ này đã đột phá được mấy hàng rào dây thép gai, đã đuổi đánh địch và tiếp tục thọc sâu vào tung thâm của địch. Quân địch ở đó đã bỏ chạy, chỉ còn lại 4 tên với mấy khẩu tiểu liên và mấy khẩu trọng pháo. Nhưng suốt từ 8 giờ tối cho đến sáng hôm sau, lực lượng của ta còn nhiều, cán bộ chỉ huy trung đoàn và tiểu đoàn của ta chỉ cách đó 500 thước cũng không tự ra nắm tình hình, không tìm cách liên lạc với đơn vị thọc sâu để tiếp sức cho đơn vị này hoàn thành nhiệm vụ. Như vậy, nguyên nhân chính không thành công không phải là do địch mạnh ta yếu, mà là do cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tác phong đi sâu đi sát.

leftcenterrightdel
Các đơn vị xung kích, tấn công tiêu diệt địch trên đồi Him Lam. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Nhưng đợt 2 không hoàn thành, chủ yếu là vì không đánh thắng đồi A, nếu đánh thắng đồi A thì những chỗ khác cũng có thể giải quyết xong.

Vì sao không đánh thắng đồi A? Có phải vì địch mạnh, vì trung đoàn 174 không đủ năng lực hay không? Không. Bộ đội trung đoàn 174 rất anh dũng, khi đánh đồi A lần thứ 2, mặc dầu chất lượng sút kém nhưng đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang. Trong những cuộc tấn công lần thứ nhất, mặc dầu đơn vị rất sung sức, nhưng sở dĩ trung đoàn 174 không tiêu diệt được đồi A là vì cán bộ chỉ huy thiếu tinh thần trách nhiệm, chủ quan khinh địch, quan liêu đại khái, không nắm vững địch tình, không chuẩn bị chu đáo, không chấp hành chỉ thị cấp trên, không lắng nghe ý kiến cấp dưới.

Tóm lại, tình hình địch như vậy, khả năng của bộ đội như vậy, chúng ta hoàn toàn có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ của đợt 2 là tiêu diệt toàn bộ khu vực phía đông Mường Thanh. Nhiệm vụ đó không hoàn thành, nguyên nhân chủ yếu là vì tư tưởng và tác phong của cán bộ thiếu sót, còn nhiều sai lầm nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra là cán bộ cần sửa chữa khuyết điểm để tiến lên theo kịp bộ đội và làm tròn nhiệm vụ, chứ không phải là hạ thấp nhiệm vụ và hạ thấp bộ đội xuống cho phù hợp với những khuyết điểm của cán bộ chỉ huy.

Xem như trên, chúng ta thấy có thắng lợi Điện Biên Phủ, chủ yếu là nhờ có phương châm chiến dịch "đánh chắc tiến chắc". Phương châm đó là then chốt của chiến thắng Điện Biên Phủ, vì vậy một trong những bài học kinh nghiệm lớn của thắng lợi Điện Biên Phủ là bài học về phương châm chiến dịch.

B - BÀI HỌC THỨ HAI: Muốn xây dựng và giữ vững quyết tâm để bảo đảm thắng lợi cho chiến dịch, cần phải kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm, chủ yếu là tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, đồng thời cần phải chú trọng giải quyết các vấn đề tổ chức để làm cho quyết tâm có cơ sở.

1. Quyết tâm của Trung ương và Tổng quân ủy là một quyết tâm có cơ sở.

Trung ương hạ quyết tâm đánh Điện Biên Phủ là vì nhận thấy cần phải đánh và có thể đánh được.

Cần phải đánh là vì nếu không tiêu diệt được Điện Biên Phủ thì không thể mở được con đường tiến bộ cho bộ đội, không thể đẩy mạnh được cuộc đấu tranh vũ trang tiến lên một bước, không thể buộc địch phải thay đổi bố trí phòng ngự và thu hẹp phạm vi chiếm đóng, không thể phá được kế hoạch Nava, và không có được một hậu thuẫn chắc chắn cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ.

Có thể đánh được là vì quân địch tuy mạnh nhưng bị cô lập ở rừng núi, bố trí tương đối phân tán, bộ đội ta thì tập trung ưu thế binh hỏa lực, sung sức, anh dũng, chiến thuật, kỹ thuật tiến bộ, và nhất là có phương châm đúng. Ta có nhiều khó khăn về chiến thuật, về cung cấp, về lãnh đạo tư tưởng bộ đội, song những khó khăn đó đều có thể khắc phục được.

Trung ương căn cứ vào tình hình như vậy mà hạ quyết tâm, cho nên quyết tâm của Trung ương là một quyết tâm có cơ sở.

Trung ương cũng có dự kiến là nếu tình hình Điện Biên Phủ diễn biến không lợi, đánh không chắc thắng, thì cần phải đặt nguyên tắc đánh chắc thắng lên cao hơn hết mà cơ động, linh hoạt có thể thay đổi quyết tâm. Nhưng nếu điều kiện chiến thắng hãy còn mà thay đổi quyết tâm thì là dao động. Về sau tình hình Điện Biên Phủ có thay đổi, nhưng Trung ương nhận thấy điều kiện chiến thắng hãy còn, cho nên Trung ương vẫn giữ vững quyết tâm.

2. Tổng quân ủy đã tiến hành giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng từ trên xuống dưới để xây dựng quyết tâm và mỗi khi có tư tưởng sai lầm xuất hiện thì đã lãnh đạo kiên quyết đấu tranh để củng cố và giữ vững quyết tâm.

Lúc bộ đội kéo pháo trở ra, Đại đoàn 308 sang Thượng Lào, tư tưởng bộ đội rất hoang mang, phổ biến nhất là tư tưởng hoài nghi, thắc mắc rằng trên có chủ trương đánh Điện Biên Phủ hay không và tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, sợ thương vong mệt mỏi. Trước tình hình đó, Tổng quân ủy đã hết sức chú trọng giáo dục phương châm "đánh chắc tiến chắc, vạch rõ là Tổng quân ủy giữ vững quyết tâm tiêu diệt Điện Biên Phủ, và để đạt tới mục đích đó thì chỉ có thể có một phương châm là "đánh chắc tiến chắc". Cuộc hội nghị cán bộ đợt 1 của chiến dịch là một cuộc hội nghị giải quyết tư tưởng thành công. Sau cuộc hội nghị đó, Tổng quân ủy và các đồng chí phụ trách đã phân công xuống từng đơn vị để tiếp tục động viên, có khi xuống đến đại đội, đối với pháo binh thì xuống đến khẩu đội. Nhờ vậy, chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ một cách gọn ghẽ và nhanh chóng trong đợt 1.

leftcenterrightdel

Phút nghỉ ngơi của các chiến sĩ giữa hai trận đánh. Tuy gian khổ, khốc liệt nhưng các cán bộ, chiến sĩ của ta vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Những lá thư nhà đọc cho đồng đội nghe trong chiến hào là nguồn cổ vũ tinh thần mãnh liệt, tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ vững tâm vượt qua khó khăn để chiến đấu. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Sau đợt 1, vì một số đơn vị bị thương vong, vì quân địch ra sức đối phó, nên tư tưởng hữu khuynh tiêu cực vẫn phát triển. Nhưng vì ta đã chiến thắng quân địch, cho nên tư tưởng chủ quan khinh địch cũng bắt đầu xuất hiện. Trong cuộc hội nghị cán bộ đợt 2, Tổng quân ủy đã phân tích tình hình, nhận định tương quan lực lượng giữa địch và ta, nêu rõ địch còn mạnh, nhấn mạnh rằng phải tiếp tục quán triệt phương châm "đánh chắc tiến chắc", tiến hành đấu tranh chống tư tưởng chủ quan khinh địch. Lúc đó đáng lẽ đồng thời với việc chống tư tưởng chủ quan khinh địch thì phải tiếp tục chống tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, nhưng Tổng quân ủy chỉ nhấn mạnh tư tưởng chủ quan khinh địch cho nên tư tưởng hữu khuynh tiêu cực vẫn phát triển.

Lúc tình hình tư tưởng nghiêm trọng nhất là sau đợt 2. Có đơn vị chiến thắng nhưng bị tiêu hao mệt mỏi. Có đơn vị đánh 3 lần đồi A, bị thương vong nặng, nhưng vẫn không hoàn thành nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến tình hình tư tưởng của toàn quân. Lúc đó tư tưởng hữu khuynh tiêu cực phát triển đến cao độ, nó ngăn trở sự chấp hành mệnh lệnh: cuộc chiến đấu nào cũng xin lùi thời gian 2, 3 lần, có đơn vị mượn cớ phương châm "đánh chắc tiến chắc" để kéo dài thời gian, không tích cực chấp hành mệnh lệnh.

Trước tình hình như vậy, Tổng quân ủy nhận định rằng trở ngại chủ yếu lúc đó là tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, nếu không giải quyết thì nhất định sẽ thất bại. Tổng quân ủy chỉ thị cho các cấp phải kiểm điểm và sửa chữa những tư tưởng sai lầm, chủ yếu là tư tưởng hữu khuynh tiêu cực. Nhưng sự nhận thức, kiểm thảo và phê phán của các cấp không đúng mức, cho nên Tổng quân ủy quyết định triệu tập hội nghị các bí thư đại đoàn ủy để tiến hành kiểm thảo cho nghiêm khắc. Trong cuộc hội nghị đó, trải qua cuộc đấu tranh tư tưởng rất gay go, với tinh thần phê bình thành khẩn và nghiêm khắc của người bônsêvích, hội nghị đã đi đến thống nhất nhận thức, thống nhất tư tưởng, nhận rõ trở ngại chủ yếu lúc đó là tư tưởng hữu khuynh, tư tưởng rất trầm trọng trong các cấp đại đoàn ủy rồi đến trung đoàn ủy. Cuộc hội nghị đó đã thành công lớn, đã đặt cơ sở để chuyển hướng tư tưởng của toàn quân, bảo đảm sự chấp hành mệnh lệnh, bảo đảm cho chiến dịch đi đến toàn thắng.

3. Đi đôi với việc giáo dục và lãnh đạo tư tưởng, Tổng quân ủy đã đề cao kỷ luật, bảo đảm sự chấp hành mệnh lệnh và chính sách.

Từ trước đến nay, khuyết điểm của ta là chỉ chú trọng về giáo dục, coi nhẹ việc chấp hành kỷ luật, trong vấn đề kỷ luật thì thưởng nhiều phạt ít, có hành động không đáng thưởng cũng thưởng, có hành động đáng phạt nhưng không phạt.

Sau đợt 2, đi đôi với việc giáo dục và lãnh đạo tư tưởng, Tổng quân ủy đã chọn mấy trường hợp điển hình về không chấp hành mệnh lệnh và chính sách để trừng phạt, nhằm giáo dục toàn quân: đưa một cán bộ tiểu đoàn ra tòa án binh vì không chấp hành mệnh lệnh, làm ảnh hưởng đến trận đánh và làm tổn hại đến lực lượng của quân đội. Trừng phạt mấy cán bộ vì không chấp hành chính sách thương binh tử sĩ, không tiết kiệm vũ khí đạn dược, thông báo những hiện tượng không chấp hành mệnh lệnh cho toàn quân.

Sau những vụ thi hành kỷ luật này, kỷ luật có trọng điểm và nhằm mục đích giáo dục, tinh thần chấp hành mệnh lệnh và chính sách của cán bộ được nâng cao hơn trước, khuyết điểm tuy vẫn còn nhưng nói chung thì giảm bớt nhiều.

4. Muốn xây dựng và giữ vững quyết tâm thì đồng thời với việc giải quyết tư tưởng, cần phải giải quyết các vấn đề tổ chức.

Tách rời giải quyết tư tưởng với giải quyết tổ chức là giải quyết tư tưởng suông. Khi phát hiện mỗi tư tưởng, sai lầm thì một mặt phải giải thích, thuyết phục, đấu tranh để giải quyết tư tưởng, một mặt phải giải quyết bằng tổ chức.

Trong chiến dịch, cán bộ và chiến sĩ có nhiều thắc mắc lo ngại về ba vấn đề:

- Một là sợ thương vong mệt mỏi, thiếu lực lượng.

- Hai là những khó khăn về chiến thuật.

- Ba là những khó khăn về cung cấp.

Tổng quân ủy đã giải quyết như sau:

a) Về lực lượng thì một mặt giải thích, thuyết phục để giải quyết tư tưởng sợ thương vong mệt mỏi, một mặt giải quyết các vấn đề bổ sung tân binh, cải thiện cấp dưỡng, vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc thương bệnh binh, sử dụng các lực lượng dự bị, biên chế lại đơn vị, v.v... làm sao cho lúc nào đơn vị cũng có đủ quân số chiến đấu.

b) Về chiến thuật: lần này có nhiều vấn đề chiến thuật mới như xây dựng trận địa, bộ pháo hợp đồng, đánh lấn, đánh tỉa, v.v... bộ đội ta lại chưa có kinh nghiệm, vì vậy một mặt phải động viên giải thích để bộ đội mạnh dạn áp dụng chiến thuật mới, một mặt phải tổ chức giáo dục và rút kinh nghiệm, tổ chức vừa đánh vừa học tập, để dần dần nâng cao tin tưởng và nâng cao trình độ cho bộ đội.

c) Về cung cấp: cán bộ có nhiều lo ngại: nhu cầu nhiều, hậu phương xa, thời gian gấp, đường sá không bảo đảm, địch phá, trời mưa, vận tải khó, v.v...

Để giải quyết vấn đề này, một mặt Tổng quân ủy đã giáo dục nhiệm vụ và lãnh đạo tư tưởng cho cán bộ cung cấp, đặt nếp làm việc khẩn trương như theo dõi và chỉ đạo tác chiến. Mặt khác, Tổng quân ủy đã tập trung cán bộ, công binh, dân công, xe cộ đồng thời bố trí bộ đội phòng không để bảo đảm đường sá. Lúc gặp khó khăn thì tập trung lực lượng, phân phối cán bộ chỉ đạo, huy động tân binh, khi cần thì huy động cả bộ đội chủ lực đi làm đường.

Trung ương và Hồ Chủ tịch cũng theo dõi rất sát tình hình mặt trận, luôn luôn quan tâm đến việc cung cấp cho bộ đội.

Bộ Chính trị đã quyết định: "toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch" (Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 19 tháng 4 năm 1954 đối với mặt trận Điện Biên Phủ-BBT).

leftcenterrightdel

Các đơn vị xung kích của ta tấn công sân bay Mường Thanh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Vì vậy, cho nên một số đồng chí Trung ương và Tổng quân ủy được cử xuống các địa phương đôn đốc việc huy động nhân vật lực cho chiến dịch, một số cán bộ chuẩn bị cho công tác cải cách ruộng đất nay cũng được chuyển sang phục vụ tiền tuyến, những xe cộ, dân công, thanh niên xung phong, lương thực, trước định chuẩn bị cho việc làm đường ở hậu phương nay cũng được chuyển tất cả cho chiến dịch.

Xem như trên, chúng ta thấy bài học lớn về việc chỉ đạo công tác cung cấp trong chiến dịch Điện Biên Phủ là bài học quyết tâm và tập trung lực lượng để giải quyết khó khăn.

Tóm lại, bài học kinh nghiệm lớn thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ là sau khi đã có phương châm và kế hoạch, thì việc lãnh đạo tư tưởng để xây dựng quyết tâm có tác dụng quyết định đối với sự thực hiện phương châm và kế hoạch, đối với sự thắng lợi của chiến dịch. Việc lãnh đạo tư tưởng cũng phức tạp, khẩn trương như việc chỉ huy tác chiến. Muốn lãnh đạo tư tưởng thành công thì phải kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm, đồng thời phải kết hợp việc giải quyết tư tưởng với việc giải quyết các vấn đề tổ chức.

C. BÀI HỌC THỨ BA: Có phương châm chiến lược và phương châm chiến dịch đúng, lại cần phải có tư tưởng chỉ đạo chiến thuật đúng và những nguyên tắc chiến thuật thích hợp. Sự chỉ đạo chiến thuật phải cụ thể, linh hoạt và phải quán triệt từ trên xuống dưới mới bảo đảm được thắng lợi.

1. Để thực hiện phương châm chiến lược "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" và phương châm chiến dịch "đánh chắc tiến chắc", Tổng quân ủy đã đề ra những vấn đề tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo chiến thuật sau đây:

- Xây dựng trận địa tấn công và bao vây để nhanh chóng tiếp cận bao vây và chia cắt quân địch.

- Tiêu diệt một số cứ điểm ngoại vi để tiêu diệt sinh lực địch và chiếm những địa hình có lợi, nhằm thắt chặt vòng vây.

- Giữ vững trận địa, đánh địch phản kích.

- Khống chế sân bay và không phận Điện Biên Phủ, hạn chế và tiến tới triệt tiếp viện và tiếp tế của địch.

- Dùng các phương thức hoạt động nhỏ như đánh nhỏ, đánh lấn, bắn tỉa để tiêu hao sinh lực địch và tạo điều kiện tiêu diệt địch.

Đó là 5 điểm chính trong tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo chiến thuật của Tổng quân ủy ở mặt trận Điện Biên Phủ. Chúng ta cần nhận rõ những tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo chiến thuật đó liên quan với phương châm "đánh chắc tiến chắc" như thế nào.

a) Tại sao phải xây dựng trận địa tấn công và bao vây?

Địch có phi cơ, pháo binh, cơ giới. Muốn tấn công quân địch, ta phải giải quyết vấn đề tiếp cận dưới phi cơ và pháo binh của địch. Muốn bao vây quân địch, ta cũng phải giải quyết vấn đề tiếp cận dưới phi cơ và pháo binh của dịch. Làm trận địa, chính là để giải quyết vấn đề đó, vẫn để vận động bộ đội, vấn đề tiếp cận dưới phi cơ và pháo binh địch, do đó giải quyết luôn một vấn đề rất quan trọng mà từ trước đến nay chúng ta vẫn chưa giải quyết được là vấn đề đánh ban ngày.

Thực tế đã chứng minh rằng nhờ có trận địa mà bộ đội ta tiếp cận và tiêu diệt được quân địch, ít bị thương vong vì phi cơ và pháo binh của chúng, mặc dầu phi cơ và pháo binh địch hoạt động rất mạnh.

Thực tế đã chứng minh rằng nhờ có trận địa mà bộ đội ta đã vận động được dễ dàng, đã giữ vững được quyền chủ động, muốn đánh thì đánh, muốn rút thì rút. Nhờ có trận địa mà bộ đội ta đã vận chuyển được ban ngày, dần dần giải quyết được tư tưởng ngại đánh ban ngày, thậm chí có đồng chí muốn đánh ban ngày hơn đánh ban đêm.

Thực tế đã chứng minh rằng bộ đội ta đã thực hiện được các vấn đề chiến thuật khác như tiêu diệt được những cứ điểm ngoại vi, đánh địch phản kích, khống chế sân bay và không phận Điện Biên Phủ, đánh lấn, bắn tỉa, v..v... cũng là nhờ có trận địa, không có trận địa thì nhất định không làm được.

Tác dụng của trận địa to lớn như vậy, nhưng vì cán bộ ta không nhận rõ cho nên phải trải qua một quá trình đấu tranh rất gay go mới thực hiện được.

b) Tại sao phải tiêu diệt những cứ điểm ngoại vi?

Quân địch ở Điện Biên Phủ là một kẻ địch mạnh, chúng ta không thể đánh nhanh giải quyết nhanh, không thể tiêu diệt toàn bộ quân địch trong một hay hai trận. Muốn thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc" thì phải tiêu diệt quân địch từng bước, phải tiêu diệt dần dần những cứ điểm ngoại vi, chiếm những lợi thế địa hình để thắt chặt vòng vây, làm cho quân địch ngày càng suy nhược, tạo những điều kiện thuận lợi để tiến tới tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Cũng như vấn đề xây dựng trận địa, vấn đề tiêu diệt những cứ điểm ngoại vi là biểu hiện cụ thể của phương châm "đánh chắc tiến chắc". Không có những trận đó tức là không thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", thì không thể có chiến thắng ngày nay.

c) Tại sao phải giữ vững trận địa, đánh địch phản kích?

Từ trước đến nay, bộ đội chưa quen đánh phòng ngự, chưa quen đánh phản kích, nên khi đề ra vấn đề này thì có rất nhiều thắc mắc. Nguyên nhân một phần là vì chưa có kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là vì chưa nhận rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề giữ vững trận địa, đánh địch phản kích, chưa nhận rõ sự liên hệ giữa vấn đề này đối với những vấn đề chiến thuật khác và đối với toàn bộ phương châm "đánh chắc tiến chắc" trong chiến dịch.

Về phía ta, tiêu diệt những cứ điểm ngoại vi là để chiếm những địa hình có lợi, xây dựng trận địa ở đó, tiến tới tiêu diệt những cứ điểm khác, dần dần thắt chặt vòng vây, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Nếu tiêu diệt xong một cứ điểm mà nhanh chóng rút quân, không củng cố trận địa ở đó, thì việc tiêu diệt cứ điểm mất một phần ý nghĩa rất quan trọng, vòng vây không thắt chặt lại được, quân địch vẫn có điều kiện tăng viện và tiếp tế.

Về phía địch, quân địch bố trí thành tập đoàn cứ điểm, những cứ điểm có thể yểm hộ lẫn cho nhau bằng binh lực và hỏa lực. Khi một cứ điểm bị công kích, nhất là khi vào gần đến khu vực tung thâm, nhất định địch sẽ tổ chức phản kích để chiếm lại.

Vì vậy, mỗi khi ta tiêu diệt một cứ điểm thì phải đặt vấn đề chiếm giữ trận địa. Muốn giữ vững trận địa thì nhất định phải đánh địch phản kích, muốn đánh địch phản kích thì nhất định phải xây dựng trận địa vững chắc. Đó là hai mặt của một vấn đề; kinh nghiệm những trận đánh địch phản kích ở 206, A1, đồi Độc Lập, v.v... và kinh nghiệm việc củng cố đồi D đã chứng minh như vậy.

d) Tại sao phải khống chế sân bay, hạn chế và tiến tới triệt tiếp viện và tiếp tế của địch?

Quân địch ở Điện Biên Phủ là một kẻ địch hoàn toàn bị cô lập về đường bộ. Tất cả mọi sự tăng viện và tiếp tế đều trông cậy vào đường không. Chúng ta khống chế sân bay và không phận Điện Biên Phủ là đánh vào chỗ hiểm yếu nhất của địch, đánh vào cuống họng của địch, cắt đứt nguồn sống của chúng.

Tất cả mọi việc xây dựng trận địa, tiêu diệt những cứ điểm ngoại vi, giữ vững trận địa, đánh địch phản kích, v.v... cũng đều nhằm mục đích dần dần thắt chặt vòng vây, khống chế sân bay và không phận Điện Biên Phủ, hạn chế và tiến tới triệt tiếp viện và tiếp tế của địch.

Trong chiến dịch, lúc đầu ta chỉ khống chế sân bay bằng pháo binh, dần dần do trận địa bao vây và tấn công của ta ngày càng thắt chặt, cho nên ta đã khống chế sân bay và không phận Điện Biên Phủ, không những bằng pháo binh và cao xạ pháo, mà bằng cả hỏa lực của bộ binh.

e) Tại sao phải tăng cường những hoạt động nhỏ?

Ta đề ra vấn đề này là vì tập đoàn cứ điểm của địch rộng, trận địa của ta sát trận địa của địch, ta có điều kiện cử những bộ đội nhỏ vào hoạt động để làm cho địch bị tiêu hao mệt mỏi, tinh thần sút kém, tạo điều kiện để tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Đó là vấn đề thực hiện phương châm "cơ động, linh hoạt" kết hợp những hoạt động nhỏ với những trận đánh lớn, kết hợp những hoạt động có tính chất du kích với những trận công kiên tương đối quy mô.

2. Sự chỉ đạo chiến thuật phải cụ thể, linh hoạt và phải quán triệt từ trên xuống dưới.

a) Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sự chỉ đạo chiến thuật của Tổng quân ủy có hiệu quả hơn so với những chiến dịch trước, một nguyên nhân quan trọng là vì nó được cụ thể hơn.

Ví dụ: vấn đề xây dựng trận địa thì ngoài việc phổ biến những nguyên tắc chung, Bộ còn định rõ tiêu chuẩn, kích thước, cự ly, thời gian, cách lựa chọn địa hình, cách đào công sự, cách làm trận địa, v.v... Về vấn đề bộ pháo hợp đồng thì định rõ mục tiêu, cự ly, thời gian, số lượng đạn, cách phân công và phối hợp giữa các loại hỏa lực, cách tổ chức chỉ huy, v.v...

b) Chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch lịch sử đối với ta cũng như đối với địch, cho nên cả hai bên đều ra sức tìm hiểu quy luật của nhau và luôn luôn thay đổi cách đối phó. Vì vậy, sự chỉ đạo chiến thuật phải rất linh hoạt, tùy theo sự thay đổi của địch mà áp dụng những thủ đoạn chiến thuật cho thích hợp.

Ví dụ: Về bộ pháo hiệp đồng, lúc đầu thì ta tiến hành tuần tự: pháo bắn phá hoại xong thì bắn chế áp rồi bộ binh xung phong. Về sau, địch rút kinh nghiệm: khi pháo ta bắn phá hoại và bắn chế áp thì địch không đối phó, khi pháo bắn chế áp xong tức là bộ binh chuẩn bị xung phong thì địch ra sức đối phó, bắn thật mãnh liệt vào đột phá khẩu để sát thương bộ đội ta và chặn ta lại. Đối phó với thủ đoạn chiến thuật mới của địch, ta phải thay đổi quy luật: pháo bắn phá hoại từ mấy ngày trước, khi bộ binh xung phong thì chỉ bắn chế áp thật ngắn hay có khi không bắn, có khi bắn nhưng không xung phong, có khi xung phong nhưng không bắn.

c) Sự chỉ đạo chiến thuật cụ thể và linh hoạt chưa đủ, còn cần phải quán triệt từ trên xuống dưới mới bảo đảm được thắng lợi

Ví dụ: Về xây dựng trận địa, Bộ đã đề ra những yêu cầu rất cụ thể, nhưng bị tắc ở đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn. Vì vậy cho nên bộ đội không hiểu rõ mục đích ý nghĩa của việc xây dựng trận địa, không hiểu rõ tác dụng của trận địa, không hiểu rõ phương pháp làm, do đó mà không hăng hái phấn khởi, số người đi làm khi ít khi nhiều, công việc ít kết quả. Về sau, khi Bộ có gửi thư xuống tận chiến sĩ, giải thích rõ vì sao phải xây dựng trận địa, xây dựng trận địa như thế nào, v.v... thì bộ đội rất phấn khởi, số người đi làm trận địa tăng vọt lên, năng suất tăng rất nhiều.

Qua những kinh nghiệm kể trên, chúng ta nhận thấy những tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo chiến thuật cần phải thích hợp với tình hình thực tế địch, ta và với phương châm chiến dịch. Không những thế, nó còn phải cụ thể, linh hoạt và quán triệt từ trên xuống dưới mới đi đến toàn thắng được.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã tiến bộ nhiều về chiến thuật, ví dụ như về đánh ban ngày, đánh phòng ngự, bộ pháo hợp đồng, tiếp cận dưới phi cơ pháo binh của địch. Tuy nhiên, nếu cán bộ các cấp ít phạm sai lầm trong sự thực hiện những nguyên tắc của Tổng quân ủy đã đề ra, thì thắng lợi của ta sẽ to lớn hơn, thời gian chiến dịch cũng sẽ rút ngắn hơn.

Các đồng chí,

Chiến dịch Điện Biên Phủ đã thu được toàn thắng.

Trong lúc nêu những bài học về chỉ đạo chiến lược, chỉ đạo chiến dịch, lãnh đạo tư tưởng, chỉ đạo chiến thuật, chỉ đạo công tác cung cấp, v.v... chúng ta nhận thấy nguyên nhân chủ yếu của thắng lợi đó là đường lối và chủ trương quân sự đúng đắn của Đảng, là quyết tâm rất lớn của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Chỉ có tư tưởng quân sự của Chủ nghĩa Mác - Lênin... chỉ có phương châm chiến lược "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" và phương châm chiến dịch "đánh chắc tiến chắc", chỉ có đấu tranh tư tưởng trong nội bộ một cách nghiêm khắc, không nhân nhượng, chỉ có những tư tưởng và nguyên tắc chỉ đạo chiến thuật do thực tế đấu tranh cách mạng xây dựng nên thì mới có thắng lợi đó. Vì vậy, thắng lợi Đông Xuân, thắng lợi Điện Biên Phủ là thắng lợi của đường lối quân sự của Đảng, thắng lợi của Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chiến dịch Điện Biên Phủ đã đánh dấu một bước tiến bộ lớn của quân ta. Nhìn lại tám năm kháng chiến, từ lúc đánh du kích nhỏ đến thắng lợi ngày nay, chúng ta càng thấy rõ đường lối kháng chiến và xây dựng quân đội của Đảng là đúng, càng tin tưởng vào tương lai, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch.

Rồi đây, nhiệm vụ của quân đội ta ngày càng nặng.

Ngừng bắn mới chỉ là bước đầu để lập lại hòa bình, hòa bình hiện chưa được củng cố, nước ta hiện chưa được hoàn toàn thống nhất và độc lập. Nhiệm vụ của chúng ta là phải ra sức tăng cường lực lượng, nâng cao ý chí chiến đấu, tiếp tục chỉnh huấn chính trị, tiếp tục học tập chiến thuật và kỹ thuật, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh chính trị của toàn dân để giữ vững hòa bình, hoàn thành thống nhất, độc lập dân chủ cho Tổ quốc.

Để phát triển thắng lợi Điện Biên Phủ, để nâng cao trình độ chính trị và trình độ chiến thuật, kỹ thuật, để xây dựng quân đội, vấn đề học tập những kinh nghiệm quý báu của chiến dịch Điện Biên Phủ là một vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng. Không những thế, vì hướng xây dựng của quân đội ta là tiến dẫn đến chính quy mà những kinh nghiệm Điện Biên Phủ chỉ mới là những kinh nghiệm trong thời kỳ du kích tiến lên chính quy, cho nên trong khi học tập kinh nghiệm, chúng ta phải ra sức phát triển thêm.

Có như vậy, chúng ta mới làm tròn được nhiệm vụ nặng nề và vinh quang đó do Đảng giao. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng là Quân đội nhân dân Việt Nam, chiến đấu và trưởng thành dưới ngọn cờ "Quyết chiến Quyết thắng" của Hồ Chủ tịch.

------------

* Theo một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc son lịch sử xem các tin, bài liên quan.