QĐND - Tiểu đoàn được thành lập và tồn tại chỉ vỏn vẹn chưa đầy 4 năm (7-1967 - 3-1971), tham gia chiến đấu hàng trăm trận và lập nên không ít chiến công… Trận đánh ác liệt và đem lại tiếng vang hơn cả là trận đánh đợt 1 Mậu Thân năm 1968 vào sân bay Tân Sơn Nhất - Sài Gòn đã làm nên “Dáng đứng Việt Nam”, đó là Tiểu đoàn 16 (d16), Phân khu 2, Long An anh hùng.

Từ trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất…

Đầu tháng 12-1967, nhận được lệnh của Bộ chỉ huy và Quân ủy Miền, d16 từ Tây Ninh hành quân về Long An. Đến đây, d16 nhập vào đội hình của Phân khu 2, Long An (là 1 trong 5 phân khu chuẩn bị bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 hướng Tây Bắc Sài Gòn) và được mang phiên hiệu d16 Long An, đóng quân tại Ba Thu - biên giới giữa Long An và Cam-pu-chia. Thời gian chuẩn bị chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 lúc này rất khẩn trương, bí mật. D16 chỉ có thời gian khoảng 1 tháng vừa tìm hiểu thực địa chiến trường đồng bằng, vừa huấn luyện, sắp xếp lực lượng, củng cố để chuẩn bị nhận nhiệm vụ quan trọng trong chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968.

Ngày 29-1-1968 (tức ngày 28 Tết Nguyên đán), toàn đơn vị chuẩn bị ăn Tết tại Ba Thu. Thế nhưng, đến chiều cùng ngày, d16 được lệnh lên đường nhận nhiệm vụ. Sau 1 đêm hành quân đầy gian khổ vượt sông Vàm Cỏ Đông, d16 với 100% quân số đã tập kết đúng thời gian tại đình Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đến 16 giờ ngày 30-1, d16 nhận lệnh tiến công địch của Bộ chỉ huy Miền, d16 được sắp xếp vào đội hình Trung đoàn 31 (gồm 3 đơn vị là d267, d12 và d16) của Phân khu 2 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Nhiệm vụ d16 được giao đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất từ góc Tây Nam, sau đó tiến sang đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy rồi phát triển sâu vào nội đô và hội quân tại Dinh Độc Lập. Cựu chiến binh d16 Bùi Hồng Hà (xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường, Nam Định) cho biết: “Sau khi nhận lệnh, toàn đơn vị phải chôn toàn bộ quân tư trang, chỉ được phép đem theo 1 võng, 1 ni-lông, 1 quần cộc và vũ khí cùng cơ số đạn chiến đấu. Tôi thuộc Khẩu đội cối 82 của đơn vị được giao vác nòng súng và kính ngắm có trọng lượng 21kg. Toàn đơn vị cấp tốc hành quân vừa đi, vừa chạy từ Mỹ Hạnh (Đức Hòa, Long An) vượt bưng Bình Thủy qua Tân Hòa, Vĩnh Lộc, Sài Gòn tiến thẳng về sân bay Tân Sơn Nhất. Khoảng 11 giờ 30 phút, toàn bộ d16 đã áp sát sân bay Tân Sơn Nhất gần Hãng dệt Vinatexco, triển khai trận địa chờ giờ G (24 giờ ngày 30-1-1968, tức Giao thừa) thì nổ súng đánh địch”.

Theo kế hoạch tác chiến, đúng giờ G, pháo binh ĐKB của Bộ tư lệnh Miền sẽ bắn vào sân bay là tiếng súng phát lệnh tiến công cho cả 5 cánh quân đánh vào Sài Gòn. Nhưng, giờ G trôi qua, sân bay Tân Sơn Nhất vẫn yên tĩnh. Các đơn vị nội thành đã nổ súng. Lúc ấy không ai biết vì sao pháo binh của ta không bắn vào được sân bay. Như vậy là trận đánh không có pháo khai hỏa như kế hoạch ban đầu. Bộ chỉ huy Phân khu 2 buộc phải sử dụng cối 82mm bắn vào sân bay, lúc này hỏa lực của d16 chỉ bắn được 24 quả thì hết đạn. Tiểu đoàn 16 bộ binh đặc biệt tinh nhuệ chia làm hai bộ phận. Ðại đội dự bị và trợ chiến bố trí ở khu vực hãng dệt Vinatexco (công ty dệt Thắng Lợi hiện nay), do Tiểu đoàn phó Phan Thái Nguyên chỉ huy, cách sân bay khoảng 1km. Mũi chủ công do Tiểu đoàn trưởng Nam Sơn và Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu chỉ huy thọc sâu từ hướng Tây vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trận đánh chiếm lô cốt đầu cầu góc Tây Nam sân bay rất cam go. Nhiều đạn B40, B41 của ta bắn thẳng mà vẫn chưa dập tắt được hỏa lực của địch trong lô cốt bắn ra. Bộ đội ta một số bị thương vong , xung kích 1 phải điều tổ đánh bộc phá lên. Đồng chí Đồ, Đại đội 2 (C2) ôm bộc phá dũng cảm xông thẳng vào lỗ châu mai có khẩu trọng liên đang bắn như vãi đạn. Bộc phá nổ, đồng chí Đồ anh dũng hy sinh, lô cốt đầu cầu bị đánh sập, các chiến sĩ C1, C2 mở và vượt qua 21 hàng rào kẽm gai ở hướng Tây Nam sân bay Tân Sơn Nhất và chia làm hai cánh Đông và Tây tiến đánh thẳng vào đường băng và khu để máy bay địch. C1 theo đường tuần tra bên phải tiến đánh chiếm được 2 nhà để máy bay, đẩy bọn địch vào phía trong. C2 vòng theo đường tuần tra bên trái tiến sát khu gia binh, vừa đánh, vừa truy đuổi địch. Tiếng súng các loại của ta làm chấn động cả sân bay, những cột lửa liên tiếp bùng lên đốt cháy nhiều máy bay và xe tăng địch.

Sáng 31-1-1968, địch củng cố lực lượng và bắt đầu phản kích. C1 bám sát từng xác xe tăng địch để chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt phản kích, tiêu diệt hơn 150 tên địch, bắn cháy 5 xe tăng. C2 đẩy lùi hàng chục đợt phản kích của địch, diệt 170 tên, bắn hủy 4 xe tăng và xe bọc thép M113. Khi súng hết đạn, các chiến sĩ ta lấy súng đạn địch để tiến công địch. Đồng chí Trần Văn Chắc, Đại đội trưởng C2 dùng đại liên  chiếm được của địch đánh trả quyết liệt. Đến trưa, quân ta hết đạn, lại bị địch phản kích dữ dội, nên trên ra lệnh mở đường máu để thoát ra khu hãng dệt Vinatexco.

Cựu chiến binh Vũ Chí Thành, kể: “Tôi lúc đó là Khẩu đội trưởng Khẩu đội 3, Trung đội đại liên. Khoảng 3 giờ sáng chúng tôi đã chuẩn bị vượt đường 1 (cạnh hãng dệt Vinatexco). Nhưng khi tiến qua sân bay thì địch phản kích. Chúng cho một đoàn xe tăng từ Gò Vấp chạy xuống cắt ngang lộ 1, bắn 12,7mm và pháo tự hành dọc theo lộ. Cùng lúc đó, địch huy động trực thăng bắn xối xả xuống đội hình quân ta trên đất trống khiến ta thương vong khá nhiều. Trung đội đại liên của tôi giá súng lên đồng trống đánh địch, bắn rơi 2 trực thăng và 1 máy bay khu trục. Khi khẩu đội 3 đại liên vận động vào trong hãng dệt Vinatexco thì khẩu đội 1 và 2, có cả Trung đội trưởng Đào Đức Luỗng và Trung đội phó Hà đều đã hy sinh. Ba đại đội bộ binh và các lực lượng bên ngoài sân bay Tân Sơn Nhất của d16 lúc này chỉ còn chưa đầy 100 quân vẫn bám trụ đánh địch suốt ngày 31-1-1968, tại hãng dệt tiêu diệt thêm 3 xe tăng M41, bắn rơi 1 trực thăng, diệt hàng chục tên Mỹ-ngụy”.

… Đến chiến công làm nên “Dáng đứng Việt Nam

D16 Long An nguyên là d5, e24, Sư đoàn 304B thuộc Quân khu 3 (thời chống Mỹ) được thành lập ngày 15-9-1965, các chiến sĩ d16 phần lớn là quê huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Từ tháng 9-1965 đến tháng 1-1967, là thời kỳ d5 huấn luyện kỹ thuật chiến đấu, sau đó là huấn luyện đi vào Nam. Ngày 10-2-1967, d5 được lệnh vào Nam chiến đấu với phiên hiệu là Đoàn 209A, trang bị vũ khí, quân trang, quân dụng và lương thực thuốc men và đã vượt qua muôn vàn gian khổ, ác liệt trên đường Trường Sơn. Đến tháng 7-1967, đã có trên 85% quân số tới chiến trường B2, là một đơn vị bảo đảm quân số hành quân rất cao được Bộ Quốc Phòng tuyên dương, khen ngợi. Từ tháng 7-1967, được Bộ tư lệnh Miền giao cho Quân khu 7 với Phiên hiệu là d16 Tây Ninh và từ tháng 12-1967 đến tháng 3-1971 được mang tên d16 Long An thuộc Trung đoàn 31, Phân khu 2.

 

Cựu chiến binh Bùi Hồng Hà (mặc quân phục) viếng mộ tập thể các liệt sĩ d16 hy sinh tại Tân Sơn Nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

D16 đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao với nhiều trận đánh giành thắng lợi lớn đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ tháng 7-1967 đến cuối năm 1971, trên chiến trường Tây Ninh, Sài Gòn, Long An, d16 đã đánh hơn 250 trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 3.500 tên địch (trong đó có 450 lính Mỹ), diệt gọn và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn, 5 đại đội địch (trong đó có 2 tiểu đoàn và 2 đại đội quân Mỹ). Bắn rơi và cháy 15 máy bay các loại, phá hủy và bắn cháy 55 xe quân sự (có 35 xe tăng và xe bọc thép). Phá hủy 22 khẩu pháo các loại. Bắn chìm và cháy 26 tàu xuồng chiến đấu, thu 360 súng các loại, 54 máy thông tin và nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ-ngụy, đóng góp tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ngày 30-4-1975. D16 được tặng thưởng 320 huy hiệu Dũng sĩ quyết thắng; 150 huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ... 45 Huân chương Chiến công cho tập thể và cá nhân và nhiều phần thưởng khác.

Trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất là một trận đánh với tinh thần quyết tâm rất cao của d16 về tinh thần quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, dũng cảm kiên cường, còn 1 người cũng tiến công địch.

Ông Lê Hoàng Nam, từ một binh sĩ quân đội ngụy Sài Gòn, tổ trưởng cứu hỏa của sân bay Tân Sơn Nhất thời Mỹ-ngụy kể: “Sau hòa bình tôi thường không ngủ được, cứ thấy anh em Quân giải phóng về báo mộng nhắc tôi phải chỉ ngôi mộ tập thể ở sân bay cho chính quyền cách mạng. Vợ tôi cũng khuyên nhủ, nên tôi đã báo cho chính quyền biết ngôi mộ tập thể chôn cất thi thể 180 cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng hy sinh trong đêm 31-1-1968 do chúng tôi trực tiếp mai táng. Khi biết tin, chính quyền địa phương đã di dời số hài cốt liệt sĩ nói trên về Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh”.

Ở mũi tiến công của C1 đánh chiếm đường băng và khu để máy bay địch, Chính chị viên phó Nguyễn Văn Mẹo đã hy sinh trong tư thế rất đặc biệt, dù đã hy sinh nhưng vẫn tựa người vào xác chiếc M113 (đã bị quân ta bắn hỏng), tay vẫn kẹp chặt khẩu súng AK chĩa họng súng về phía quân thù với tư thế tiến công. Chính sự hy sinh anh dũng của đồng chí Nguyễn Văn Mẹo là cảm hứng để Anh hùng liệt sĩ, nhà thơ Lê Anh Xuân sáng tác bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” nổi tiếng đến tận ngày nay.

DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM

 

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

 

Nhưng anh gượng đứng lên tỳ súng trên xác trực thăng

 

Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công

Anh tên gì hỡi anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức tường đồng

Như đôi dép dưới chân anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sĩ giải phóng quân.

Tên anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

 

 SĨ BÌNH VÀ BÁ TRƯỜNG