Tháng 10-1965, tôi đang là sinh viên năm cuối khoa Cơ khí của Đại học Bách khoa Hà Nội thì vinh dự được Quân đội tuyển chọn sang Trung Quốc học tập. Chúng tôi trở thành đoàn thứ 5 sang theo học ở Học viện Công trình Pháo binh Nam Kinh. Năm đó, cùng được tuyển chọn như tôi có gần 30 sinh viên Bách khoa đang theo học các ngành: Cơ khí, điện tử, chế tạo máy… Đoàn do anh Phó Bá Tâm quê Bắc Kạn làm trưởng đoàn.

Sang nước bạn, chúng tôi được biên chế theo học các ngành: Thiết kế, sửa chữa pháo; đạn dược; máy chỉ huy; quang học; thuốc phóng, thuốc nổ… Những ngày đầu, chúng tôi không tránh khỏi bỡ ngỡ bởi đang là những sinh viên được học tập dưới mái trường miền Bắc XHCN, nay đến sinh hoạt, học tập ở một môi trường khá mới mẻ là quân ngũ, hơn nữa phần lớn trong số sinh viên chúng tôi ngày ấy là những người lần đầu tiên xa gia đình nên ai nấy đều nhận thấy trọng trách nặng nề với biết bao khó khăn phía trước. Khó khăn đầu tiên với số “lính sinh viên” chúng tôi chính là việc học Hán ngữ. Hồi ấy, sinh viên trong nước chủ yếu được học tiếng Nga nên học tiếng Hán là một trở ngại, nhất là với những “sinh viên lớn tuổi”. Nhờ sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của các thầy, cô Trung Quốc, nên sau 6 tháng, chúng tôi đã có thể giao tiếp bằng tiếng Hán và hiểu được các bài giảng chuyên ngành do các thầy Trung Quốc lên lớp. Sau này, trong những lần tổ chức gặp mặt bạn học đồng khóa, chúng tôi vẫn thường nhắc tới thầy Lưu, cô Dương, những người thầy, người cô đã dạy chúng tôi những nét chữ, những cách phát âm đầu tiên để chúng tôi tiếp thu một cách hiệu quả nhất vốn kiến thức chuyên ngành. Chính các thầy, cô đã luôn dạy chúng tôi: Ngôn ngữ chính là phương tiện, là “cầu nối” để mỗi học viên tiếp thu tốt nhất kiến thức quân sự.

Đại tá Võ Quang Phòng.

Trong những năm 1965-1968, kinh tế của nước bạn cũng gặp nhiều khó khăn, chính trị thì có nhiều biến động, song bạn vẫn tạo điều kiện tốt nhất cho số học viên Việt Nam theo học tại trường. Các học viên chúng tôi được bạn bố trí hai người/phòng trong những khu nhà nội trú hai tầng, trong  phòng có lò sưởi hơi, các khu nhà ăn, khu thể thao được bố trí riêng cho học viên Việt Nam. Các bữa ăn luôn được bạn thay đổi để hợp khẩu vị, nhất là bữa sáng. Chẳng hạn, bữa sáng hôm nay là bánh bao thì hôm sau sẽ là cơm rang, hôm khác là cháo, bún… bạn cố gắng trong một tuần các món ăn sáng không lặp lại. Khi nước bạn xảy ra sự kiện cách mạng văn hóa (1966), có thời điểm các học viên Trung Quốc đi tham gia cách mạng văn hóa hết, chỉ còn lại học viên Việt Nam. Với các lớp ta học ghép với học viên bạn, có lớp chỉ còn duy nhất 1 hoặc 3 học viên Việt Nam, đôi khi giáo viên còn… nhiều hơn học viên, nhưng bạn vẫn duy trì các lớp này, không để quá trình học tập của học viên nước ta bị gián đoạn. Những ngày đi thực tập tại các nhà máy, công xưởng, tới đâu nhân dân Trung Quốc cũng dành cho chúng tôi những tình cảm nồng thắm. Trong lần đến thăm các căn cứ cách mạng ở Hồ Nam, Cương Sơn, Diên An… người dân địa phương đã mời chúng tôi ăn cơm gạo đỏ và bí ngô không muối, đó chính là một cách bạn giúp chúng tôi nhớ tới những năm tháng gian khó của cách mạng Trung Quốc. Tại những nơi đến thực tập, do quý mến những người bạn đến từ “tiền tuyến chống Mỹ” nên người dân địa phương đã chăng đầy các khẩu hiệu: “Việt Nam nhất định thắng, Mỹ nhất định thua”, “Nhân dân Việt Nam anh hùng muôn năm!”… Nhìn những khẩu hiệu ấy, ai trong số học viên chúng tôi cũng thấy vinh dự và cảm động.

Được sự chăm sóc ân cần của lãnh đạo nhà trường, được sự dạy bảo tận tâm của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn học viên Trung Quốc, mỗi học viên chúng tôi đã khắc phục khó khăn, học tập đạt kết quả cao và quan trọng nhất là đã nắm chắc kiến thức kỹ thuật quân sự để trở về nước phục vụ cuộc kháng chiến của dân tộc. Đến nay, tôi vẫn nhớ những gì mà cô Lưu, thầy Dương căn dặn trong ngày chúng tôi nhận bằng tốt nghiệp: “Trở về nước, các em hãy xứng đáng là những chiến sĩ trên tiền tuyến lớn, các thầy, cô và hàng trăm triệu người dân Trung Quốc sẽ là hậu phương lớn giúp những người bạn Việt Nam”.

Cách đây 6 năm, khi Ban liên lạc chúng tôi tổ chức buổi gặp mặt cựu học viên Học viện Nam Kinh, hiệu trưởng Từ Phúc Minh đã đến dự và nhắc lại kỷ niệm trong những năm tháng chúng tôi theo học. Ông cười, bảo: “Hồi ấy, hoàn cảnh đất nước khó khăn nên quân phục của chúng tôi cũng không được đầy đủ, lành lặn, nhìn học viên Việt Nam diện những bộ quân phục vừa mới, vừa đẹp, chúng tôi thấy “thèm” lắm!”. Quả thật, từ chuyện ăn, mặc cho đến học tập, bạn đều tạo điều kiện tốt nhất cho số học viên Việt Nam. Dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Học viện, tôi có mặt trong đoàn cựu học viên đại diện các khóa sang thăm lại nhà trường. Cảnh vật đã đổi thay, các thầy, cô thì người còn, người mất, song những tình cảm chân thành, quý mến giữa chúng tôi với các thầy, cô và người dân Nam Kinh thì vẫn còn vẹn nguyên như trong những ngày gian khó ấy…

Đại tá Võ Quang Phòng (kể) - Bùi Minh Tuệ (ghi)