Cũng trong đêm ấy, buổi phát thanh tiếng Anh của Đài Tiếng nói Việt Nam, quen thuộc với binh sĩ Mỹ qua giọng đọc “Hà Nội Hana”, đã phát đi thông điệp của Glen Xécten - đại úy hoa tiêu B-52G vừa bị bắt đêm hôm trước - nhắn gửi về gia đình: “Anh vẫn còn sống, được đối xử nhân đạo. Nhân dân Việt Nam không phải là kẻ thù của chúng ta. Mong cuộc chiến tranh chết tiệt này chóng kết thúc. Hôn em và con”.

Những chi tiết, tưởng như nhỏ bé ấy, diễn ra ngay giữa cuộc chiến tranh khốc liệt, lại là minh chứng sinh động cho tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong văn hóa quân sự Việt Nam - nơi con người luôn được đặt lên trên hận thù, hòa bình luôn là mục tiêu tối thượng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, truyền thống ấy được quán triệt và thực hiện nhất quán, triệt để từ vị Tổng tư lệnh đến mỗi người chiến sĩ.

Chiến tranh chỉ là lựa chọn sau cùng

Tư tưởng nhân văn quân sự là giá trị xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, được kết tinh trong truyền thống “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Đánh giặc là để chấm dứt chiến tranh, không phải để kéo dài bạo lực; tiêu diệt ý chí xâm lược, chứ không tận diệt con người; chiến tranh chỉ là lựa chọn sau cùng, khi mọi khả năng thương lượng, đối thoại đều bị khước từ. 

Ngay từ những ngày đầu lập nước, trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ đường lối đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Ngày 3-10-1945, trong Bản Thông cáo đầu tiên về chính sách đối ngoại, Người khẳng định: “Đối với các nước đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hòa bình thế giới lâu dài”. 

Trước Ngày toàn quốc kháng chiến, mặc dù Chính phủ Việt Nam đã ký Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946) với Chính phủ Pháp, song thực dân Pháp vẫn nuôi dã tâm tái chiếm nước ta, liên tiếp vi phạm các thỏa thuận, gây hấn và khiêu khích quân sự. Vì hòa bình, để tránh đổ máu cho nhân dân hai nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì con đường thương lượng, kêu gọi Quốc hội và Chính phủ Pháp thực thi Tạm ước, xây đắp sự cộng tác Pháp - Việt thân thiện và lâu dài. Trong Lời tuyên bố với phóng viên Báo Paris ở Sài Gòn, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ rõ ràng lập trường hòa bình: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh... Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng”.  

Ngày 14-9-1946, tại Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Pháp bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam để có thời gian xây dựng và củng cố lực lượng, tạo thêm thời gian hòa hoãn quý báu cho chính quyền cách mạng non trẻ chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tư tưởng ấy tiếp tục được đề cao. Thông qua báo chí quốc tế, thư từ, điện văn ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần bày tỏ thiện chí hòa bình, đề nghị đối thoại với chính phủ Mỹ. Đặc biệt, hơn một tuần trước khi qua đời, ngày 25-8-1969, trong Thư trả lời Tổng thống R. Nixon, Người vẫn khẳng định tinh thần nhân đạo và trách nhiệm với sinh mạng con người: “Tôi vô cùng công phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và đất nước chúng tôi; tôi cũng rất xúc động thấy ngày càng nhiều thanh niên Mỹ chết vô ích ở Việt Nam vì chính sách của nhà cầm quyền Mỹ”. Người còn chủ động đề nghị: “Với thiện chí của phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam”.

Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tổng kết: “Người không bỏ qua một cơ hội nào, dù nhỏ đến mấy, để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển cách mạng”. Đáng tiếc, tất cả những thiện chí hòa bình đó đều bị thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ khước từ. Tổng thống Pháp Francois Mitterrand, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 2-1993, đã nhận xét: “Ông Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại nhưng không tìm được. Dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh đã bị đẩy vào cuộc chiến tranh”.

Thế nhưng, ngay cả khi buộc phải đánh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chủ trương giữ thể diện cho nước lớn, sẵn sàng tạo điều kiện để đối phương rút lui trong danh dự. Người từng nói sẵn sàng “trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút”. Khi Mỹ không những không rút mà còn leo thang chiến tranh, Người vẫn chỉ đạo: “Một tay đánh, một tay đàm, mở cửa cho nó ra”. Tướng William Westmoreland - Tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam - trong hồi ký cũng thừa nhận: “Đối phương không tìm cách tiêu diệt chúng ta bằng mọi giá, mà tìm cách làm cho cuộc chiến trở nên không thể tiếp tục được đối với nước Mỹ”. Hồ sơ Lầu Năm Góc được giải mật và công bố công khai vào năm 1971 cũng ghi rõ: Chiến lược của Việt Nam nhằm bào mòn quyết tâm chính trị, chứ không theo đuổi chiến thắng quân sự hủy diệt.

Đối xử nhân đạo với tù, hàng binh

Tư tưởng nhân văn trong quân sự Việt Nam không chỉ thể hiện ở mục tiêu và phương pháp tác chiến, mà còn được kiểm chứng sinh động qua chính sách và thực tiễn đối xử với tù binh, hàng binh, kể cả trong những giai đoạn chiến tranh ác liệt nhất, điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn.

Những chính sách có thể nói là hiếm thấy theo thông lệ chiến tranh, vượt trên cả quy định của công ước quốc tế đối với tù, hàng binh. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhất quán chủ trương “không ngược đãi tù binh”, coi đây là biểu hiện cụ thể của chính nghĩa. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, ngày 26-9-1945: “Phải đối đãi họ cho khoan hồng, phải làm cho thế giới, trước hết là làm cho nhân dân Pháp biết rằng: Chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi độc lập, tự do, chứ chúng ta không vì tư thù, tư oán; làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp của”.

Tướng De Castries - Chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - sau này thừa nhận rằng, trong thời gian bị giam giữ, ông không bị đối xử như một tù nhân chiến tranh theo nghĩa thông thường. Ông được ở trong nhà dân, được đọc sách báo, trao đổi với cán bộ Việt Nam, được đối xử đúng mực và bình đẳng. De Castries nhiều lần thừa nhận rằng, khẩu phần sinh hoạt của mình còn cao hơn của những người canh giữ. Còn Thiếu tá, bác sĩ quân y Grauwin - phụ trách y tế của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ - sau khi bị bắt làm tù binh đã công khai bày tỏ: “Chúng tôi đã rất ngạc nhiên bởi sự đối xử tuyệt vời của các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam... Không có bất kỳ hành động thô bạo hay lăng nhục nào”.   

Tù binh phi công Mỹ chơi bóng rổ và trang trí cây thông để mừng lễ Giáng sinh. Ảnh: hoalo.vn

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chính sách nhân đạo tiếp tục được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Các tù binh Mỹ được bảo đảm ăn ở, chăm sóc y tế, được đọc sách báo, nghe đài, sinh hoạt văn hóa trong điều kiện cho phép.

Năm 2004, Bộ Chỉ huy Không quân Hải quân Hoa Kỳ đã chính thức chứng thực và vinh danh bác sĩ quân y Việt Nam Trần Công Duyệt vì đã tận tình cứu chữa Đại úy Hải quân Mỹ Clemie McKinney bị thương tại Quảng Trị. Chứng thực có đoạn viết: Bộ chỉ huy Không quân tự hào ghi nhận nỗ lực của ông trong việc cố gắng bảo vệ tính mạng của nguyên Đại úy Hải quân Clemie McKinney... Với tư cách là phẫu thuật viên, đã chữa trị cho ông ta một cách nhân đạo với săn sóc y tế tốt nhất có được. Sau hơn 30 năm, Bộ Chỉ huy chúng tôi muốn vinh danh ông vì nghĩa cử nhân đạo lớn lao đó.

Đối với binh lính ngụy, bên cạnh thực hiện nghiêm chính sách tù, hàng binh, ta còn làm tốt công tác quản lý, giáo dục, nuôi dưỡng, bảo vệ. Các trại tù, hàng binh ở miền Nam được đặt ở những địa điểm an toàn, tranh bom đạn đánh phá của địch. Sau thời gian học tập, cải tạo, tùy theo điều kiện thực tế và nguyện vọng, họ được phóng thích trở về quê quán, hoặc được bố trí làm ăn sinh sống tại vùng giải phóng. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đã không có cuộc “tắm máu” nào xảy ra.

Theo Trung tướng, PGS, TS Trần Thái Bình, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Quốc phòng: Các đánh của chúng ta là đánh tiêu diệt nhưng không mang tính hủy diệt; không đánh vào các mục tiêu dân sự; khi kẻ địch bị bắt hoặc đầu hàng thì mở đường hiếu sinh. Việc hạn chế thấp nhất tổn thất về người và của nhưng vẫn đạt hiệu quả cao trong chiến tranh chính là biểu hiện sinh động của tính nhân văn sâu sắc, vượt lên trên những giá trị văn hóa quân sự thông thường trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Ngày nay, tư tưởng nhân văn, nhân đạo ấy tiếp tục được kế thừa và phát triển trong đường lối quốc phòng toàn dân, chính sách quốc phòng “bốn không”, phương châm “thêm bạn, bớt thù”, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, giữ nước từ sớm, từ xa; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, cứu hộ cứu nạn, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.