Ngày 20-12-1946, giặc Pháp tổ chức nhiều mũi tấn công nhằm vào hai hướng chủ yếu: Hướng từ nhà Bưu điện, Cổ Viện Chàm, Chợ Mới nhằm mục tiêu giải vây cho bọn Pháp ở sân bay. Hướng đường Nguyễn Hoàng (nay là đường Lê Duẩn) nhằm chiếm nhà Ga, ngã ba Cai Lang, ngã tư Yên Khê...
Sáng 22-12-1946, địch tập trung lực lượng đánh giải vây cho đại đội quân Pháp đang cố thủ ở sân bay. Các đơn vị bộ đội, dân quân du kích Hòa Vang chặn đánh quyết liệt ở khu Chợ Mới, bẻ gãy nhiều đợt tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Một đại đội địch từ nhà Ga tiến về Chợ Mới, bộ đội Tiểu đoàn 19 chặn đánh diệt hơn một trung đội.
Phục kích đánh địch ở hầm số 1 đèo Hải Vân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (1947). Ảnh tư liệu.
Cuộc chiến đấu diễn ra ở Đà Nẵng không cân sức, về binh khí và kỹ thuật, bộ đội ta kém hơn địch, nhưng tinh thần dũng cảm hy sinh của bộ đội ta thật phi thường.
Khi chiến đấu hết đạn, chiến sĩ ta mưu trí, đốt khói mù trời rồi xung phong dùng chai cháy đốt xe địch, dùng dao đánh giáp lá cà với lính lê dương. Nhiều nơi bộ đội ta đánh đến viên đạn cuối cùng, chờ địch đến dùng bàn ghế, gạch đá cánh cửa đánh địch. Quân ta xông ra vật lộn và cắn vào cổ giặc, làm cho chúng phải khiếp sợ trước tinh thần chiến đấu quả cảm của quân ta.
Bộ đội và dân quân tự vệ đã thực hiện được yêu cầu giam chân địch trong thành phố để các cơ quan rút ra khỏi Đà Nẵng, đồng bào tản cư ra khỏi thành phố, bảo tồn lực lượng cách mạng để kháng chiến lâu dài. Chiều ngày 22 -12-1946, Ban chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị rút khỏi trung tâm thành phố.
Bộ đội cùng với nhân dân tổ chức tuyến phòng thủ mới ở tây bắc từ Phong Lệ, Nghi An, Hòa Mỹ, Đa Phước đến ngã tư Yên Khê. Ở phía nam sông Cẩm Lệ, từ Phong Lệ đến Non Nước, Trung đoàn 93 cùng dân quân và đồng bào Hòa Vang sẵn sàng đánh địch khi chúng tràn qua sông. Đồng bào sát cánh cùng bộ đội ngày đêm củng cố tuyến phòng thủ mới.
Ngày 23-12-1946 đến ngày 7-1-1947, quân địch tập trung các lực lượng chủ yếu đánh ra hướng tây Đà Nẵng, ngã tư Yên Khê đến chân đèo Hải Vân. Ngày 25 địch tấn công ngã tư Yên Khê. Ngày 26, 27 tấn công Thanh Khê, Hòa Mỹ, Yên Khê. Ngày 28 tấn công Phước Tường, Nghi An, Cẩm Lệ. Ngày 29 đổ quân bãi Thanh Khê, tiến quân theo đường sắt và quốc lộ 1. Ngày 30 tấn công Hòa Mỹ, Đò Xu. Ngày 31 tấn công Nghi An, Đò Xu, đánh bom Đà Sơn. Ngày 1-1-1947 tấn công Cẩm Lệ, Đò Xu. Ngày 2 và 3 tháng 1 pháo kích đại bác, moóc-chi-ê vào Đà Sơn, Hòa Mỹ, Nghi An, đổ quân vào Mỹ Khê. Ngày 4-1 dùng tàu thủy uy hiếp vùng Sơn Trà. Non Nước, dùng phi cơ bắn phá bừa bãi dọc quốc lộ 1 sâu vào hậu phương ta...
Tiểu đoàn 19 cùng các đơn vị bộ đội, dân quân tổ chức phòng ngự, chiến đấu kiên cường, tiêu hao nhiều địch, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của chúng.
Ở phía đông Đà Nẵng, Ban chỉ huy mặt trận chỉ thị cho Tiểu đoàn 100 (Trung đoàn 93) tập kích đêm 31-1 vào Mỹ Thị diệt hơn một trung đội địch. Bộ đội tổ chức nhiều mũi nhọn đột nhập vào nội thành hoạt động quấy rối, phá hoại, đốt kho tàng, dựng chướng ngại vật, đánh mìn bãi để xe, phục kích diệt bọn tuần tiễu, cắt dây điện, diệt trừ việt gian... gây cho địch nhiều thiệt hại, mất ăn, mất ngủ và hoang mang dao động ngay tại hậu phương chúng.
Ngày 15-1-1947, địch đổ bộ 2.000 quân nghi binh ở phía đông Đà Nẵng. Trong khi đó chúng tập trung lực lượng đánh chiếm đèo Hải Vân. Đây là con đường nối liền Đà Nẵng - Huế, là mạch máu giao thông chiến lược từ cửa biển vào sân bay Đà Nẵng tỏa khắp để tiếp tế các chiến trường Trung Đông Dương. Ngày 16-1-1947, Ban chỉ huy mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng ra lệnh cho các đơn vị ở phía đông nam Đà Nẵng “phải hoạt động mạnh, tập trung hỏa lực tiêu diệt một vị trí của địch để kìm chế sức tiến công của chúng, phối hợp với mặt trận phía tây”.
Địch đã huy động 8.000 quân, 12 tàu thủy, 8 máy bay, quyết diệt quân ta, chiếm lĩnh đường đèo Hải Vân. Từ 4 giờ sáng ngày 17-1-1947, địch dùng 2 tiểu đoàn bộ binh từ Nam Ô đánh qua sông Thủy Tú. Tàu thủy đổ quân lên Lăng Cô (Thừa Thiên) đánh vào đèo Hải Vân. Nhiều cánh quân đổ vào chân đèo, cắt phòng tuyến quân ta làm nhiều đoạn. Máy bay và pháo địch bắn rung chuyển cả đường đèo.
Ở mặt trận Thủy Tú cũng như trên đèo Hải Vân, quân ta chiến đấu vô cùng dũng cảm, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch. Sau 3 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt một đoàn xe địch, 200 lính Âu Phi và làm bị thương hàng trăm tên khác. Không chủ trương giữ đèo, các đơn vị được lệnh rút lui.
Chiếm được đèo, liên lạc được với quân ở Huế, nhưng địch không thực hiện được âm mưu tiêu diệt chủ lực ta. Trái lại, từ đây quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng biến đường đèo Hải Vân - một thắng cảnh nổi tiếng - thành mồ chôn hàng trăm quân xâm lược Pháp và tiêu diệt nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.
Sau khi chiếm được Đà Nẵng và một phần bắc Hòa Vang, đánh thông đèo Hải Vân, liên lạc được với Huế, quân Pháp ra sức củng cố các vị trí phòng thủ ở Đà Nẵng và dọc theo đèo Hải Vân, tiếp tế phương tiện phục vụ âm mưu mở rộng chiến tranh đánh chiếm Bình Trị Thiên và Hạ Lào.
Thấm nhuần chủ trương phá hoại giao thông để kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch, thực hiện nghị quyết Tỉnh ủy mở rộng, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã tháo gỡ 40km đường ray xe lửa. Đào hào chữ chi, đắp ụ làm chướng ngại, trồng cọc chi chít trên quốc lộ 1, trên các đường tỉnh lộ, đường công hương và các con đường rẽ... Đánh sập các cầu xe lửa và cầu đường bộ: Nam Ô, Phong Lệ, Bích Trâm, Cẩm Lệ, Quá Giáng, Ngũ Giáp, Vĩnh Điện. Chuẩn bị phương tiện sẵn sàng phá 25 cầu nữa khi có lệnh. Các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, đền chùa, nhà dân kiên cố, ở các thị xã Hội An, thị trấn Vĩnh Điện được lệnh đập phá tiêu thổ, thực hiện “Lúc kháng chiến phá nhà là kháng chiến”. Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh đánh sập bằng 3 quả mìn lớn. Sau 2 tuần thành cổ đã được san bằng. Đồng bào chặt tre từng đoạn dài 2 mét, vót nhọn chôn cọc ở những bãi trống chống giặc nhảy dù. Làm nỏ, đắp kè ở các cửa sông dọc theo bờ biển, ngăn canô địch vào sông.
Phòng tuyến ngăn địch của bộ đội ta bố trí dọc phía nam sông Cẩm Lệ: Trung đoàn 93 từ Non Nước, Đò Xu, Cẩm Lệ, trung đoàn 96 từ tây quốc lộ đến đèo Đại La. Tiểu đoàn 19 đánh địch trên đèo Hải Vân. Dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên vị trí được phân công.
Ngày 28-2-1947, Tiểu đoàn 19 phục kích đánh trận giao thông chiến đầu tiên trên đèo Hải Vân, phá hủy 8 xe quân sự, tiêu diệt 1 đại đội địch (có tên trung úy) thu 2 trung liên, 4 tiểu liên và 10 súng trường. Trận đánh táo bạo, bất ngờ ta thu thắng lợi mở đầu, chứng tỏ với binh khí kỹ thuật kém hơn địch, bộ đội ta với lối đánh vận động chiến, lợi dụng địa hình, có quyết tâm cao, nắm vững quy luật của địch, vẫn có thể tiêu diệt chúng.
Chiến thắng Hải Vân làm nức lòng phấn khởi, tin tưởng của quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng.
Nhân cơ hội, các đội biệt động, công an xung phong đột nhập thành phố Đà Nẵng, trừng trị những tên Việt gian, bắt sống Tôn Thất Dật, mật thám mang lon quan ba Pháp, và tên Mo-ro người Pháp đi dò la căn cứ Sơn Trà.
Đến tháng 3-1947, được viện binh, tại Quảng Nam - Đà Nẵng, giặc Pháp mở rộng cuộc tiến công lớn phối hợp cả hải, lục, không quân đồng loạt bằng nhiều mũi, trên trận tuyến từ Non Nước đến chân núi Bà Nà - tây bắc Hòa Vang, ồ ạt vượt sông Cẩm Lệ, chiếm vùng đồng bằng trù phú hạ lưu giữa hai con sông Cẩm Lệ và Thu Bồn.
Trải qua 8 tháng trực tiếp chiến đấu với giặc Pháp, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, chặn đánh giam chân địch trong thành phố, cản từng bước tiến của chúng để bảo toàn các cơ quan lãnh đạo, hướng dẫn đồng bào tản cư, giữ gìn được lực lượng chủ lực để chiến đấu lâu dài, bảo vệ được một vùng rộng lớn làm hậu phương, căn cứ kháng chiến.
MẠNH THẮNG (tổng hợp)
Tài liệu tham khảo: Mở đầu toàn quốc kháng chiến