Với kết quả kìm chân địch dài ngày, Nam Định được Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Quốc hội và Chính phủ điện khen ngợi và Trung đoàn 34 được tặng danh hiệu “Trung đoàn tất thắng”.
Trước khi bước vào Toàn quốc kháng chiến, Ban chỉ huy Mặt trận Nam Định đã được nghe phổ biến tình hình, mật lệnh, chủ trương của Trung ương Đảng; kinh nghiệm tác chiến ở Hải Phòng, Lạng Sơn và Nam Bộ; bàn, thống nhất kế hoạch tác chiến, thực hiện chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Trong kế hoạch, Ban chỉ huy mặt trận Nam Định xác định quyết tâm chủ động tiến công, bao vây quân Pháp trong nội thành Nam Định, nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng.
Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954). Ảnh tư liệu.
24 giờ ngày 19-12- 1946, pháo 75mm bắn vào nhà Băng - Nam Định. Lập tức, toàn mặt trận nổ súng đánh địch, cả thành phố rền vang tiếng súng.
Tự vệ thành phố nổ mìn ngả cây to dọc đường Trần Hưng Đạo và từ ngã tư Cửa Đông đến Tòa Thị sảnh làm vật cản. Nhiều người dân thành phố đã không ngần ngại mang đồ đạc của mình (tủ, sập) ra đường làm vật chướng ngại chặn bước tiến của quân địch. Nhân dân các khu Nhà Lá (Văn Miếu), trại Con Gái (vợ lính khố đỏ) nổi lửa tự đốt nhà ở của mình. Những đám cháy bốc lên ở khắp nơi. Cả thành phố rực lên như một biển lửa. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục và quyết liệt.
Vào lúc 8 giờ ngày 20-12-1946, máy bay và pháo của địch giội bom và bắn phá nhiều đợt vào các trận địa của ta. Địch từ trại Carô theo đường Lê Quý Đôn tiến ra định lấn chiếm nhà Ga nhưng bị quân ta chặn đánh, buộc phải quay lại.
Sáng 21-12-1946, sau khi cho máy bay đến bắn phá, từ trại Carô, địch cho xe bọc thép mở đường, tiến và quyết chiếm nhà Ga. Để bảo toàn lực lượng, đơn vị bảo vệ khu Ga được lệnh rút ra vòng ngoài, đến đêm lại cùng toàn mặt trận tiếp tục chiến đấu.
Ngày 23-12-1946, địch từ trại Carô tiến đến khu vực Năng Tĩnh và từ vị trí nhà máy sợi đánh thọc ra phía trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh (Tòa Thị sảnh cũ), hòng liên lạc với quân ở vị trí nhà Băng, nhưng đều bị lực lượng của ta đánh bật trở lại. Chiến sự diễn ra rất ác liệt tại nhà máy tơ, nhà máy sợi, nhà băng, khu vực ga. Tiểu đoàn 69, 75 cùng lực lượng tự vệ đánh giáp lá cà, giành giật với địch từng căn buồng, từng tầng gác. Đến hết tháng 12-1946, ta và địch giành giật từng vị trí, từng đường phố và quyền chủ động chiến trường vẫn thuộc về quân dân ta.
Qua nhiều lần phản kích không kết quả, quân số, vũ khí đạn dược bị hao hụt nghiêm trọng, các cơ sở điện, nước bị ta đánh phá không sử dụng được, quân Pháp tỏ ra rất hoang mang, có nơi phải xin ta ngừng bắn để đi kiếm nước và rau. Đa-bô-van điện về Hà Nội thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp đóng ở Nam Định đang lâm vào thế nghẹt thở và hoàn toàn bị cô lập”. Ngày 4-1-1947, Lơ-cléc đã gửi cho Đa-bô-van bức công điện với lời hứa: Mọi nỗ lực đều nhằm vào việc giải tỏa Nam Định. Hai mươi bốn giờ sau, cuộc viện binh giải vây đầu tiên cho Nam Định được tiến hành.
Ngày 5-1-1947, địch liên tục cho máy bay khu trục đến bắn phá, ném bom xuống khu vực Năng Tĩnh, phố Khách (nay là đường Hoàng Văn Thụ), hòng tiêu diệt lực lượng của ta. Song, do tổ chức phòng tránh tốt nên quân ta thiệt hại không đáng kể. Đến 20 giờ ngày 5-1-1947, địch cho 6 máy bay Đa-kô-ta đổ khoảng 200 quân cùng hàng tiếp tế xuống các khu vực Nhà máy sợi C, nhà máy chiếu, Năng Tĩnh. Ban chỉ huy mặt trận kịp thời chỉ đạo các đơn vị dùng súng bộ binh sẵn có tiếp cận đánh địch. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 75 Trần Quang Thường lệnh cho tất cả súng máy chuyển lên nóc nhà tầng nhằm cửa máy bay - nơi quân dù nhảy ra đón bắn; dùng súng trường bắn thủng dù và hòm hàng. Địch hốt hoảng nên nhiều dù người, dù hàng rơi lạc xuống khu vực của ta. Bằng mọi cách, với mọi thứ vũ khí, các chiến sĩ đã dũng cảm xông ra diệt địch khi chúng vừa chạm đất. Nhân dân thành phố Nam Định hăng hái phục vụ bộ đội chiến đấu và nhiều người đã trực tiếp đánh quân dù.
Cuộc chiến đấu chống quân dù kéo dài đến 2 giờ ngày 6-1. Quân ta đã bắn bị thương gần 40 tên địch, bắt sống 6 tên, thu hàng chục khẩu súng các loại, hàng tấn đạn dược, lương thực và rất nhiều dù. Khoảng hai phần ba số quân dù thoát chết chạy vào vị trí Nhà máy sợi C.
Sáng 6-1, được tin địch có 3 ca nô và tàu chiến, được máy bay yểm trợ, chở 200 tên lính từ sông Hồng tiến vào sông Đào, Khoảng 6 giờ sáng, khi ca nô, tàu chiến của địch vào tới khu vực Đò Quan thì pháo 75 ly từ trận địa Tiểu đoàn 75 bắn trúng đội hình địch, làm một chiếc bốc cháy và đội hình của chúng trở nên rối loạn. Lúc này quân địch đóng ở nhà máy sợi, nhà máy chiếu, trại Carô đã nống ra phối hợp với lực lượng đổ bộ đường thủy. Cuộc chiến đấu càng quyết liệt, nhất là ở khu vực Bến Thóc, Cần Cẩu, nhà máy chiếu. Quân địch từ Đò Quan rút dần về vị trí nhà máy sợi, nhưng đều bị quân ta chặn đánh kịch liệt. Địch từ phía Cửa Đông và nhà chủ Sói nống ra phản kích. Một xe thiết giáp bắn xối xả vào phía chùa Vọng Cung nhưng bị đạn sơn pháo của ta chặn lại, buộc phải quay lại. Khoảng 8 giờ, hai máy bay địch lao đến ném bom vào Cột Cờ và một số trận địa của ta.
Địch cho tàu lùi ra ngã ba sông Hồng, sông Đào, dùng máy bay và pháo trên tàu bắn vào các điểm ở hai bờ sông Đào nghi có bộ đội ta chiếm giữ. Quân dù cũng được lệnh phối hợp phản kích. Trận chiến giữa ta và địch diễn ra giằng co quyết liệt. Các chốt của ta đều chiến đấu dũng cảm, giữ vững trận địa.
Tính ra, trên toàn mặt trận, quân và dân Nam Định vừa đánh quân tăng viện, vừa quét sạch địch tại vị trí Nhà máy Tơ, dồn chúng vào Nhà máy Sợi. Cho tới 17 giờ ngày 6-1, địch bị đánh thiệt hại nặng nề, số còn lại phải tháo chạy vào các vị trí cố thủ của chúng. Ta đã tiêu diệt gần 100 tên, bắn chìm một ca nô và thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng.
Quân Pháp bị ta bao vây chặt, chỉ còn cố thủ ở trại Carô, nhà máy sợi C, nhà Băng, bị thiếu thốn mọi bề. Hằng ngày, máy bay của chúng phải đến tiếp tế cả lương khô và đạn dược. Riêng vị trí nhà Băng phải tiếp tế cả nước uống. Lực lượng của ta đã tận dụng mọi cơ hội để tiêu hao sinh lực địch.
Ngày 6-3-1947, địch điều 1.500 quân, 120 xe cơ giới các loại cùng một đại đội thủy quân lục chiến có 2 tàu chiến, 4 ca nô và máy bay yểm trợ, theo đường sông Hồng về giải vây Nam Định. Trên đường hành quân, địch bị quân dân Hà Nam chặn đánh liên tục ngày đêm. Mãi tới 19 giờ ngày 9-3-1947, chúng mới tiến tới Lý Nhân (Hà Nam), cách thành phố Nam Định khoảng 10km hội quân thủy, lục ở đây để triển khai đội hình. Sáng sớm ngày 10-3, địch chia thành ba mũi tiến về thành phố Nam Định: Một mũi từ sông Hồng đổ lên đê Hữu Bị, theo Đường 38; Mũi thứ hai, từ sông Hồng đổ bộ lên Tân Đệ theo Đường 10 và một lực lượng vẫn ở lại trên tàu xuôi sông Đào; Mũi thứ ba, từ đê sông Hồng qua Đại Hoàng (Lý Nhân) sang Bảo Lộc, Như Thức, Phú Ốc (Mỹ Lộc) theo Đường 21.
Theo kế hoạch, quân ta chủ động rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Sáng sớm ngày 10-3, đại đội Quyết tử quân đã nổ pháo nghi binh và sử dụng súng trường bắn tỉa tiêu diệt địch. Buổi trưa, tiếp tục nổ pháo từ đường Đinh Tiên Hoàng tới Vị Xuyên. Sau đó, các tổ phân tán theo dõi bám đánh trả quân địch. Đêm đến, Quyết tử quân vừa chủ động tập kích các vị trí đồn trú, vừa cuốn bùi nhùi vào pháo cho nổ ầm vang ở các nơi, uy hiếp quân giặc, tạo điều kiện để quân ta rút ra ngoài bảo toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài.
MẠNH THẮNG (tổng hợp)
Tài liệu tham khảo:
Chiến đấu trong vòng vây
Mở đầu toàn quốc kháng chiến