Tiến sĩ ĐẶNG KIM SƠN, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Tri thức hóa nông dân để đưa nông nghiệp “cất cánh”

Sau gần 40 năm đổi mới, nông thôn nước ta ngày càng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; đời sống nông dân và diện mạo nông thôn có nhiều đổi thay. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối diện với nhiều hạn chế nội tại phải sớm khắc phục, ví như: Nông nghiệp phát triển thiếu bền vững; khả năng cạnh tranh chưa mạnh, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; kinh tế tập thể yếu. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực còn hạn chế; năng suất lao động và thu nhập bình quân của cư dân nông thôn còn thấp, xu hướng già hóa; tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Xây dựng nông thôn mới chưa đi vào chiều sâu; phát sinh nhiều phức tạp ở một số lĩnh vực...

Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã khẳng định nông nghiệp là lợi thế quốc gia của Việt Nam và cư dân nông thôn đóng vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Do vậy, việc tri thức hóa nông dân hay nói cách khác là xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, theo hướng có nền tảng văn hóa, đạo đức, văn minh; có kiến thức căn bản về sản xuất nông nghiệp, kể cả cơ giới hóa, tự động hóa, số hóa; có kỹ năng và tay nghề vững chắc cả sản xuất và quản lý, kinh doanh đã trở thành yêu cầu thiết yếu để đưa nền nông nghiệp sinh thái của Việt Nam tiến lên sản xuất lớn.

Nghề nông phải làm giàu chính bằng chất lượng lao động cao, bằng tri thức. Để làm được vậy thì phải thực hiện tốt các khâu: Chuyển dịch hiệu quả số lượng lớn lao động nông thôn hiện nay ra khỏi sản xuất nông nghiệp; chính những lao động này cũng phải được chuyên nghiệp hóa, tri thức hóa, nằm trong các tổ chức quản lý người lao động, được đào tạo tay nghề để có thể bước vào thị trường lao động chính thức (có hợp đồng, có bảo hiểm) với những ngành nghề chắc chắn bảo đảm sinh kế tương lai để họ hoàn toàn yên tâm giao quỹ đất vào tay những nông dân giỏi ở lại sản xuất nông nghiệp. Đây là điều kiện tiên quyết để khắc phục điểm yếu sản xuất manh mún, hình thành tầng lớp nông dân có tri thức của nền nông nghiệp hàng hóa lớn.

leftcenterrightdel
Cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 134, Binh chủng Thông tin liên lạc lắp đặt, thử nghiệm tính năng thiết bị VSAT COTM trên tàu của Quân chủng Hải quân. Ảnh: HẢI ĐƯỜNG 

-------------------------------

PGS, TS NGUYỄN THỊ THANH HÀ, giảng viên Bộ môn Vật lý tin học, Viện Vật lý kỹ thuật, Đại học Bách khoa Hà Nội:

Cơ hội lớn để nữ trí thức khẳng định, cống hiến

Là nữ Phó giáo sư trẻ nhất được công nhận chức danh khi mới 34 tuổi, tôi nhận thấy mình may mắn được sinh ra và lớn lên trong thời bình, đặc biệt là thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ. Tôi cũng may mắn khi được về công tác tại Bộ môn Vật lý tin học, Viện Vật lý kỹ thuật của Đại học Bách khoa Hà Nội ngay sau khi tốt nghiệp đại học-một môi trường nghiên cứu lý tưởng hội tụ những thầy, cô và đồng nghiệp có chuyên môn cao, kinh nghiệm nghiên cứu dày dặn (bộ môn có 5/8 đồng chí là phó giáo sư, giáo sư). Tôi tự hào được đứng trong hàng ngũ nữ trí thức, nhà khoa học trẻ của Việt Nam. Năm 2020, Việt Nam có 3 nhà khoa học nữ được bầu vào danh sách 100 nhà khoa học hàng đầu châu Á do Tạp chí Asian Scientist của Singapore bầu chọn. Điều đó khẳng định, phụ nữ Việt Nam có vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, đã được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận, tôn vinh.

Tuy nhiên, trong hành trình nghiên cứu khoa học và công nghệ, các nữ trí thức đã và đang đối mặt với không ít rào cản, thách thức và hạn chế. Ngày nay, sự bình đẳng giới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ càng được đẩy mạnh, nhưng sự khác biệt về giới vẫn là một trong những yếu tố cơ bản khiến người phụ nữ phấn đấu trở thành một nhà khoa học khó khăn hơn nam giới. Theo quan niệm truyền thống, phụ nữ Việt Nam có vai trò giữ lửa trong gia đình với trách nhiệm chính trong chăm sóc con cái, cha mẹ. Vì vậy, cùng một lúc đảm nhiệm nhiều vai trò, trọng trách là điều không dễ dàng. Để đáp ứng những đòi hỏi của người nghiên cứu khoa học trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển khoa học và công nghệ hiện nay, nhà nghiên cứu phải không ngừng nỗ lực, tích cực tìm hiểu, tiếp cận tri thức khoa học mới nhất để tạo ra sản phẩm mang tính cá biệt, có chất lượng cao. Do đó, mỗi người phụ nữ lại càng gặp nhiều thách thức hơn trong việc cân bằng giữa phát triển sự nghiệp và xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Điều này đồng nghĩa chúng tôi cần sự cảm thông, sẻ chia và ủng hộ từ phía người thân, gia đình, đồng nghiệp và xã hội.

Thiết nghĩ, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân thì đội ngũ nữ trí thức, nhất là phụ nữ làm nghiên cứu khoa học rất cần Đảng, Nhà nước có những giải pháp, cơ chế, chính sách ưu tiên, tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội phát triển toàn diện, đóng góp nhiều hơn vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

-------------------------------------

Đồng chí BÙI HOÀNG TÙNG, Bí thư Đoàn Khối các cơ quan Trung ương:

Phát huy vai trò trí thức trẻ trong kỷ nguyên số

Kiến thức chuyên môn giỏi, năng lực tư duy sáng tạo tốt, khả năng hội nhập cao, tinh thần dân tộc cũng như luôn mong muốn được đóng góp xây dựng đất nước là những thế mạnh của trí thức trẻ (TTT) Việt Nam. Những thành tựu quan trọng của nước ta trong thời kỳ đổi mới nói chung, những năm gần đây nói riêng đều có dấu ấn của đội ngũ TTT. Tôi tin tưởng, thông qua việc đánh giá khách quan, toàn diện tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII sẽ có những quyết sách đột phá trong đẩy mạnh xây dựng đội ngũ trí thức nói chung, TTT Việt Nam nói riêng.   

Tôi rất phấn khởi khi thời gian qua, Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện, cơ hội để TTT rèn luyện, cống hiến, trưởng thành. Phong trào TTT ngày càng phát triển; mặt trận đoàn kết, tập hợp TTT được mở rộng; số TTT trở thành đoàn viên, đảng viên ngày càng tăng. 

Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với trọng tâm là chuyển đổi số đặt ra nhiều thời cơ và thách thức lớn trên phạm vi toàn cầu, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Bối cảnh ấy đòi hỏi cần có những cơ chế, chính sách mới, mang tính đột phá hơn nữa trong việc phát huy vai trò, khơi dậy động lực cống hiến trong TTT-đội ngũ tinh hoa của nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao, lực lượng đi đầu trong đổi mới, sáng tạo, ứng dụng tiến bộ mới của khoa học-công nghệ, vì sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Trong đó, cần quan tâm xây dựng, ban hành thêm những chính sách khuyến khích TTT đi đầu trong truyền bá những tri thức tiến bộ tới cộng đồng, áp dụng hiệu quả tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí. Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, trọng dụng TTT theo hướng bảo đảm sự công bằng về cơ hội, hiệu quả đóng góp và tính chất công việc sáng tạo; tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định nhằm khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám”.

Bên cạnh đa dạng hóa nguồn lực đầu tư phát triển đội ngũ TTT, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, bình quân chủ nghĩa, cần mở rộng môi trường dân chủ, công bằng trong học thuật và nghiên cứu khoa học để khích lệ TTT. Trung ương Đoàn tiếp tục củng cố, phát huy vai trò của Mạng lưới TTT Việt Nam toàn cầu; chủ động tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp về chính sách thu hút, trọng dụng TTT, trước mắt là cụ thể hóa và triển khai hiệu quả Đề án "Phát hiện, bồi dưỡng và phát huy tài năng trẻ Việt Nam giai đoạn 2022-2030" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

---------------------------------

Đồng chí HÀ VĂN HÙNG, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh:

Cần cơ chế, chính sách đặc thù, đủ mạnh để trí thức bứt phá, cống hiến

Về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã khẳng định nhất quán và rất rõ. Tôi nghĩ rằng, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, chúng ta cần có đánh giá khách quan, toàn diện về kết quả đạt được để tiếp tục phát huy; đồng thời chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân để xác định nhiệm vụ, giải pháp tối ưu, có tính đột phá về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời gian tới.

Tôi cho rằng, để tạo sự đột phá về xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước ta cần có các chủ trương, quan điểm mới về đội ngũ trí thức, nhất là phải có cơ chế chính sách đủ mạnh nhằm phát huy tài năng, tâm huyết, khát vọng cống hiến xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Theo đó, để thu hút, tôn vinh, đãi ngộ đối với trí thức, cần có sự hoàn thiện, đồng bộ hơn nữa về hệ thống pháp luật, chính sách đặc thù liên quan, cụ thể là: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để phát huy dân chủ, sức sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức. Quan tâm, lắng nghe ý kiến phản biện có trách nhiệm của trí thức trên các lĩnh vực, đặc biệt là những trí thức dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung.

Từ chủ trương của Đảng, cần thể chế hóa bằng các chính sách đặc thù cho từng ngành, lĩnh vực để thu hút, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, nhất là những trí thức bậc cao, những người tài có nhiều đóng góp quan trọng, thiết thực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta cần tạo môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất, cơ hội cống hiến nhiều nhất cho trí thức trong và ngoài nước. Trong đó, cần chú trọng đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác đánh giá, xét duyệt các chức danh khoa học, danh hiệu tôn vinh trí thức tương xứng với trình độ và sự cống hiến thực tế của trí thức.

Có thể nói rằng trong bất kỳ thời đại nào, Việt Nam không thiếu người tài, vấn đề là chúng ta tập hợp, thu hút, đãi ngộ, tôn vinh, phát huy vai trò của đội ngũ đặc biệt quan trọng này như thế nào cho hiệu quả mới là vấn đề mấu chốt. Tin tưởng rằng, trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước sẽ có những quyết sách mới mang tính đột phá, tạo chuyển biến căn bản trong xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.

------------------------------------

Tiến sĩ TRẦN THỊ QUỲNH DIỄN, giảng viên Trường Đại học Y Hà Nội: 

Lượng đổi, chất cũng phải đổi

Việt Nam đang là một trong những quốc gia có đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó số giáo sư, tiến sĩ thuộc top đầu khu vực. Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, tính đến hết năm 2021, Việt Nam có gần 60.000 cán bộ, công chức ở các cơ quan từ cấp huyện trở lên có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ... Kết quả đó khẳng định những bước tiến dài sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".

Thế nhưng thực tế cũng cho thấy, dù có một lực lượng trí thức khá đông đảo, số lượng giáo sư, tiến sĩ ngày càng nhiều nhưng chưa phản ánh đúng thực tế về chất lượng của đội ngũ trí thức Việt Nam; nhất là những đóng góp của đội ngũ này vẫn chưa tương xứng với số lượng, quy mô, tầm vóc hiện có. Việt Nam chưa có nhiều trí thức lớn, nhà khoa học uy tín tầm cỡ quốc gia, quốc tế và đang thiếu các nhà lãnh đạo, quản lý tầm cỡ, các chuyên gia giỏi. Mặt khác, các sản phẩm nghiên cứu, công trình khoa học có hàm lượng chất xám cao, được ứng dụng vào phục vụ sản xuất và đời sống xã hội chưa nhiều. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu tầm cỡ quốc tế, có đóng góp đột phá đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nói riêng, giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu nói chung còn khá khiêm tốn... 

Đánh giá về những hạn chế, yếu kém kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn chỉ rõ: Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển... Khi cho ý kiến vào nội dung tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Bộ Chính trị khóa XIII chỉ rõ: “Cơ cấu của đội ngũ trí thức còn bất hợp lý về ngành nghề, khu vực, độ tuổi; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ngang tầm khu vực và trên thế giới; chưa có nhiều các công trình sáng tạo lớn”.

Để những đóng góp của đội ngũ trí thức Việt Nam đối với sự phát triển chung của đất nước thực sự ngang tầm với quy mô, số lượng thì còn rất nhiều vấn đề đang đặt ra. Ngoài những vấn đề về cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ, thu hút, trọng dụng và sử dụng trí thức thì vấn đề đáng quan tâm là phải nâng cao chất lượng ngang tầm số lượng trí thức. Mong rằng, tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII, Trung ương sẽ bàn thảo sâu kỹ và có những giải pháp căn cơ hơn để xây dựng được đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm khu vực và quốc tế, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Chính trị xem các tin, bài liên quan.