Cuộc đấu trí, đấu lực bản lĩnh và trí tuệ của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam
Sau 8 năm thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, “kháng chiến, kiến quốc”, quân và dân ta đã lập nên nhiều chiến công to lớn trên các chiến trường, đẩy thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động. Với tham vọng xoay chuyển tình thế, tháng 7-1953 thực dân Pháp thực hiện Kế hoạch Nava, hòng tập trung binh lực, giành thắng lợi trong vòng 18 tháng. Đây là nỗ lực tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh của Pháp được Mỹ giúp sức. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, quân và dân ta đã phát huy quyền chủ động, tiến hành cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đẩy địch càng lún sâu vào thế bị động, phải tập trung quân lên Điện Biên Phủ để thực hiện cuộc giao chiến chiến lược ngoài kế hoạch.
Câu hỏi đặt ra là vì sao Bộ Chỉ huy Pháp lại chọn Điện Biên Phủ?
Đó là vì, Điện Biên Phủ là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng của cả vùng Tây Bắc nói riêng và toàn bộ chiến trường Đông Dương nói chung. Từ Điện Biên Phủ có thể dễ dàng đi sang Thượng Lào, có đường đi xuống Trung Lào, Hạ Lào, xa hơn có thể đến phía Tây Bắc của Thái Lan và Mianma, đi lên phía Nam Trung Quốc. Điện Biên Phủ là thung lũng rộng nhất miền Tây Bắc, có cả sân bay Mường Thanh được Pháp xây dựng năm 1939, sẽ là căn cứ không quân - lục quân rất lợi hại ở Tây Bắc Đông Dương. Điện Biên Phủ sẽ được sử dụng làm án ngữ và chốt chặn bộ đội chủ lực ta trên đường tiến lên Lai Châu và tiến sang Lào.
Đó là vì, vị tướng - Tổng chỉ huy Nava cùng Bộ Tham mưu Pháp đều tin chắc rằng nếu xây dựng một tập đoàn cứ điểm phòng thủ mạnh ở đây thì chủ lực của ta không thể công phá, không thể đánh bại được vì trong suốt 8 năm chiến tranh, chủ lực của ta chưa từng đánh thắng hình thức phòng ngự kiểu tập đoàn cứ điểm như vậy. Trái lại, Điện Biên Phủ sẽ trở thành một cái bẫy, “một loại nhọt hút độc”, thu hút các đơn vị chủ lực của đối phương tiến công và sẽ bị tổn thất, thậm chí bị tiêu diệt.
Đó là vì, phía Pháp tin rằng đối phương không thể bảo đảm vận chuyển tiếp tế vũ khí, phương tiện vật chất, hậu cần cho một lực lượng đông tới hàng vạn người chiến đấu trong một thời gian dài, ở xa hậu phương hàng trăm ki-lô-mét, khi mà chỉ có một con Đường số 6 từ Hà Nội đi Hà Đông, Xuân Mai, Hòa Bình, Sơn La, lên đến Tuần Giáo, Điện Biên. Máy bay và pháo binh của Pháp sẽ dễ dàng ném bom, bắn phá khống chế, ngăn chặn con đường huyết mạch này, triệt đường tiếp tế cho các lực lượng của ta tại Điện Biên Phủ.
Một lý do quan trọng nữa là Bộ Chỉ huy Pháp cho rằng đối phương không thể kéo pháo vào mặt trận, khi mà không có đường cho xe kéo pháo và không thể dùng sức người để kéo lên dốc cao các khẩu pháo nặng hàng tấn…
Trước những diễn biến mới của tình hình, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp khẩn cấp nghe Tổng Quân ủy báo cáo, đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy.
Trên cơ sở các đơn vị chủ lực được tổ chức xây dựng và rèn luyện trong chiến đấu qua nhiều chiến dịch lớn, được củng cố trong chỉnh huấn chính trị, quân sự, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh đã sử dụng lực lượng các đại đoàn chủ lực mạnh: 308, 312, 316, 304 (thiếu) và 351, tạo sức mạnh đột phá trong cuộc quyết chiến chiến lược với thực dân Pháp.
Bộ Chỉ huy quân Pháp tin rằng, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một giải pháp chiến lược quân sự màu nhiệm. Họ hy vọng với hình thức phòng ngự này, quân Pháp có thể vô hiệu hóa để tiến tới tiêu diệt các binh đoàn chủ lực trang bị còn hạn chế của đối phương. Họ không hề biết rằng sau đợt một của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ hình thành, vấn đề đặt ra với Bộ Thống soái Việt Nam và riêng với Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không phải là tiến công hay không tiến công mà là đánh như thế nào để tiêu diệt được một tập đoàn cứ điểm mạnh như vậy? Không đánh bại được hình thức phòng ngự chiến lược mới này của quân Pháp thì cũng tức là không mở được một cục diện thuận lợi cho cuộc kháng chiến phát triển. Đó chính là quyết tâm không lay chuyển và cũng là niềm tin của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi ông rời căn cứ Việt Bắc hành quân ra tiền tuyến trực tiếp chỉ huy – Trách nhiệm trước Trung ương Đảng, Bác Hồ; trước Tổ quốc, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ.
 |
Chiều 7-5-1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, đánh dấu thời khắc của Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Ảnh tư liệu TTXVN
|
Quyết chiến, quyết thắng
Sau gần 50 ngày chuẩn bị mọi mặt, tính từ khi Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc” (26-1-1954), đúng 17 giờ ngày 13-3-1954, các đơn vị thuộc Đại đoàn 312 tiến công cụm cứ điểm Him Lam, nằm ở phía Bắc khu trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trận Him Lam thắng lợi cho thấy sự tiến bộ trong cách đánh công kiên của bộ đội ta. Đây là cụm cứ điểm mạnh, được bố phòng kiên cố, đặc biệt là quân Pháp đã được thông tin về thời điểm bị đối phương tiến công nên đã có sự chủ động đối phó, điều này khác với tình hình trước đây thường là bị tiến công bất ngờ, nhưng vẫn bị đánh bại.
Một nguyên nhân Bộ đội Việt Nam giành thắng lợi trong trận mở màn Chiến dịch và là điểm mới trong tác chiến chiến dịch là vai trò của pháo binh. Bộ Chỉ huy Pháp không thể tin được là Bộ đội Việt Nam có thể kéo pháo bằng tay vào các trận địa đặt trên núi cao ở mặt núi hướng xuống lòng chảo Điện Biên Phủ. Uy lực và hiệu quả của các trận pháo kích khiến các khẩu pháo của Pháp bị phá hủy và bị khống chế. Tướng Yvơ Gra viết: “Trận đánh bắt đầu bằng sự xuất hiện của pháo binh Việt Minh và điều này đã gây nên một sự bất ngờ chiến thuật thực sự… Pháo binh Việt Minh được bố trí thành từng khẩu riêng biệt suốt dọc sườn núi phía Đông của lòng chảo… Sự phân tán đó tránh được các cuộc phản pháo và công kích của không quân Pháp. Pháo binh Việt Minh bắn bằng cách bắn trực tiếp và có thể bắn dồn dập với một mật độ nhất định… Pháo binh Pháp rất dễ bị phá hủy bằng những phát đạn bắn thẳng từ trên núi” [2].
Tiếp theo cụm cứ điểm Him Lam, đêm ngày 15-3-1954, hai Trung đoàn 165 Đại đoàn 312 và Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 tổ chức tiến công cụm cứ điểm đồi Độc Lập (Gabrien) sau khi bộ đội pháo binh đã bắn cấp tập vào các đơn vị trong cụm cứ điểm. Đây là cứ điểm do Tiểu đoàn 5, Trung đoàn bộ binh Angiêri số 7 (5e/7 RTA) gồm 4 đại đội đóng giữ, có hai tuyến phòng ngự hoàn chỉnh, có công sự vững chắc, cách trung tâm Mường Thanh 4km về phía Bắc. Các đơn vị của Trung đoàn 165 trên hướng chủ yếu đột phá thuận lợi từ cửa mở vào đến trung tâm. Ở hướng thứ yếu, Trung đoàn 88 gặp trở ngại lúc đầu do mở cửa sai hướng và do quân địch chống trả quyết liệt. Pháo từ trung tâm Mường Thanh bắn ra nhằm chia cắt đội hình tiến công của Bộ đội Việt Nam, đồng thời Chỉ huy trưởng De Castries điều động Tiểu đoàn dù số 5 vừa đặt chân xuống Điện Biên Phủ chưa đầy một ngày, không thạo địa hình, cùng 6 xe tăng ra cứu viện cho Gabrien. Tuy nhiên, với lực lượng áp đảo, với cách đánh phù hợp và quyết tâm cao, sau hơn 3 giờ tiến công, bộ đội ta đã làm chủ hoàn toàn cụm cứ điểm Đồi Độc Lập, bắt sống nhiều tù binh.
Chiều ngày 30-3-1954, đợt tiến công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm bắt đầu. Đề cập đến chiến thuật của Bộ đội Việt Nam sử dụng trong đợt hai, viết: “Trong thời kỳ này ông Giáp không chủ trương mở những trận công kích quy mô lớn, tiêu hao nhiều về người và đạn dược. Ông thực hiện việc tiêu hao kẻ thù bằng cách quấy rối và đánh chiếm lần lượt từng cứ điểm ngoại vi, nhằm siết chặt vòng vây khu trung tâm. Ông dùng phương pháp “vây lấn” thay cho phương pháp xung kích ồ ạt từ cự ly ngắn. Phương pháp đó là vây hãm điểm tựa bị công kích bằng một hệ thống chiến hào, cuối cùng hoàn toàn cuốn chặt lấy điểm tựa, giống như con nhện bắt côn trùng trong mạng nhện. Như vậy, vị trí trở nên bị cô lập, bị phong tỏa và nhanh chóng bị bóp nghẹt vì thiếu đạn dược, thực phẩm và nhất là thiếu nước”[3].
17 giờ chiều ngày 1-5-1954, đợt tiến công thứ 3 của quân ta ở Điện Biên Phủ bắt đầu. Đến ngày 7-5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, quân và dân ta đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định, đánh bại nỗ lực chiến tranh cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Thừa nhận thất bại, Tổng Chỉ huy Nava viết trong hồi ký: “Chúng ta mất khoảng 16.000 người, trong đó 1.500 chết và 4.000 bị thương. Tính đơn vị, thiệt hại của ta gồm 16 tiểu đoàn (trong đó có 7 tiểu đoàn dù), hai tiểu đoàn pháo 105 và một đại đội 155, một tiểu đoàn xe tăng và một số đơn vị binh chủng và bảo đảm khác. So với đạo quân viễn chinh, thiệt hại này chiếm 9% và so với tổng số quân ở Đông Dương thì chiếm 3,5%”[4].
Âm vang Điện Biên Phủ còn mãi…
Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ truyền thống yêu nước nồng nàn và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đặc biệt, góp phần làm nên chiến thắng, trong quá trình chiến đấu cũng như chuẩn bị chiến dịch, với bản chất và truyền thống tốt đẹp của một đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, tìm mọi cách vượt qua thử thách ngặt nghèo nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều tấm gương tiêu biểu minh chứng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, cho lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã xuất hiện tại chiến trường Điện Biên Phủ.
Sống sót sau trận Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, Trung tá Marcel Bigeard (sau là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hòa Pháp) rút ra nguyên nhân thất bại của Pháp trước năng lực bậc thầy về tổ chức và xây dựng quân đội cũng như tài cầm quân của Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Những con người do tướng Giáp đào luyện thật là những chiến binh tuyệt vời! Những cuộc phản kích của quân Việt chặn đứng pháo binh của chúng tôi, các khẩu súng cối của chúng tôi không thể nhả đạn” [5].
Marcel Bigeard thú thực thêm: “Đây, tôi đã là tù binh của những người Việt Nam nhỏ nhắn này, những người mà ở trong quân đội Pháp của chúng ta, xưa kia chúng ta cho là chỉ có thể làm tốt công việc của những y tá và lái xe. Trong khi đó, những con người này có tinh thần chiến đấu cực kỳ ngoan cường, bắt đầu từ con số không năm 1945 với một lý tưởng, một trang bị vũ khí chắp vá, một mục tiêu: đánh đuổi người Pháp đi. Trong vòng chín năm, tướng Giáp đã đánh bại đạo quân viễn chinh của chúng ta, điều đó không có gì phải bàn cãi” [6].
Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Viện Lịch sử quân sự
[1] Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.50.
[2] Yvơ Gra, Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương 1945 - 1954, Nxb. Plon, Pari, 1979, tr.969 - 970.
[3] Yvơ Gra, Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương, Sđd, tr.984.
[4] H.Nava, Thời điểm của những sự thật, người dịch Nguyễn Huy Cầu, Nxb. Công an nhân dân và Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr.219.
[5] Marcel Bigeard, Lời thú nhận muộn mằn, Nxb. Hà Nội, 2004, tr.78.
[6] Marcel Bigeard, Lời thú nhận muộn mằn, Nxb. Hà Nội, 2004, tr.89.
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng xem các tin, bài liên quan.