Tôi vui mừng hỏi: “U đi cách nào mà tìm được con ở đây?”. U tôi mừng rỡ nói: “U đi làm về sớm, nghe mọi người bảo các con chuẩn bị chuyển đi nơi khác nên u tranh thủ tìm bằng được đến thăm con và anh em”.
Cả tiểu đội quây quần trò chuyện rôm rả với u tôi. Thấy ai cũng tươi tắn, khỏe mạnh, u tôi mừng lắm. Biết đơn vị đang bận rộn nên u tôi chỉ trò chuyện và vội vã căn dặn tôi mấy câu rồi ra về. Tôi cùng anh em trong tiểu đội tiễn u một đoạn đường nhỏ trong thôn. Trời sẩm tối, gió lạnh ập về. Bước chân u tôi như ngắn lại. Khi bóng u tôi trong chiếc áo tơi khuất vào đoạn đường rẽ, tôi mới quay về nơi đóng quân. Hình ảnh u tôi đi chân đất, khoác áo tơi từ đồng ruộng đến thăm con với dáng vẻ tất bật, lòng tôi như thắt lại... Từ đó cho đến nhiều năm sau, đến bất cứ nơi đâu, nhất là miền Trung nắng lửa, gió Lào, thấy nhiều người khoác áo tơi cặm cụi trên đồng ruộng là tôi lại nhớ đến u tôi-nhớ chiếc áo tơi mà u tôi thường khoác trên người.
 |
Ảnh minh họa: baokhanhhoa.vn |
Nhà tôi thời kỳ đó có hai chiếc áo tơi, thầy tôi một chiếc, u tôi một chiếc. Từ khi sinh ra, lớn lên, đến ngày nhập ngũ, tôi vẫn chỉ thấy thầy u tôi dùng hai chiếc áo tơi ấy. Quê tôi nghèo, ruộng đồng mênh mông, người dân lam lũ nên ai cũng khoác áo tơi mỗi khi “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Chiếc áo tơi chỉ đơn giản được cấu tạo bởi nhiều lớp lá cọ, lá cau đan xen và khâu cố định bằng chỉ gai, áo dài đến đầu gối, tay cộc, dây thừng hoặc dây mây buộc ở vị trí cổ để dễ dàng kéo rút lại khi khoác vào người. Quanh năm bốn mùa, những ngày trời nắng nóng, mưa to gió lớn hay giá rét thấu xương, chiếc áo tơi như vật bất ly thân của mọi người dân quê tôi trên đồng ruộng. Với u tôi, chiếc áo tơi không chỉ che nắng, che mưa, che gió rét mà còn che cả mảnh bom của giặc Mỹ.
Tôi nhớ mãi buổi chiều 11-7-1967, u tôi đang làm ruộng thì máy bay Mỹ ào ào bay tới thả gần 100 quả bom tấn xuống khắp làng. Trong khói bom mịt mù, đất đá và mảnh bom văng tứ tung. Chiếc áo tơi của u tôi bị mảnh bom Mỹ chém nát một mảng cọ ở sau lưng. Khi máy bay bay khỏi, u tôi hốt hoảng chạy vội về nhà, thấy đất đá đầy sân nhưng may các con vẫn an toàn trong căn hầm chữ A. Lúc ấy, u tôi mới biết chiếc áo tơi của mình bị rách nát một phần do mảnh bom. Sau này, u tôi và mọi người cứ xuýt xoa, may nhờ có chiếc áo tơi mà thoát chết...
Sau trận bom ấy, u tôi phải kiếm lá cau khô ghép lại, khâu chồng thành lớp rồi vá vào chỗ rách của chiếc áo, thay dây thừng nhỏ luồn vào cổ áo. Tuy vậy, vóc dáng chiếc áo vẫn lộ rõ mảng vá, khác hẳn với những chiếc áo tơi khác của bà con dân làng. Dù là chiếc áo tơi vá, nhưng u tôi hằng ngày đi làm về đều cất giữ cẩn thận, treo cao trên hàng cọc sau tường nhà. U tôi coi chiếc áo tơi như của quý trong nhà và luôn dặn các con “Của bền tại người”, chiếc áo che chở cho mình thì mình cũng phải biết giữ cho bền mà dùng hằng ngày...
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, làng quê tôi giờ đổi thay nhiều. Hình ảnh chiếc áo tơi đã vắng bóng, thay vào đó là những đồ chống nắng nóng, chống mưa bão, chống rét... đa dạng, hiện đại. Nhưng trong ký ức tôi, chiếc áo tơi của mọi người dân thôn quê nói chung, của u tôi nói riêng vẫn hiển hiện gần gũi, thân thương biết nhường nào.
VŨ VIẾT XÔ
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.