Trầm tích miền cao nguyên trắng
Ngược đường Tây Bắc, rong ruổi qua những con đường uốn lượn quanh những bản làng bình yên và những ngọn núi cao ngất trời để đến với vùng “Cao nguyên trắng” Bắc Hà (Lào Cai), chúng tôi dừng chân ở xã Bảo Nhai, nơi có ngôi đền linh thiêng, cổ kính có niên đại hơn 300 năm - đền Trung Đô. Ngôi đền tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng, phía trước là dòng suối Nậm Thìn trong mát, hiền hòa, phía sau ngọn núi cấm cao sừng sững, rợp bóng cổ thụ.
 |
Đền Trung Đô cổ kính tọa lạc dưới chân khu rừng cấm. |
Theo tư liệu lịch sử được ghi chép từ xa xưa và lưu giữ cho đến ngày nay, ngôi đền Trung Đô được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII để thể hiện lòng biết ơn, tri ân công lao to lớn của những người đã có công với vùng đất này. Trong đó, các vị tướng được thờ là Khánh Dương Hầu Vũ Văn Uyên, Gia Quốc Công Vũ Văn Mật, tướng Hoàng Vần Thùng. Đó là những vị tướng giỏi, tài ba thời nhà Lê, quê ở Gia Lộc, Hải Dương (cũ).
Hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật đã dời quê hương vào thế kỷ XVI, dừng chân ở vùng đất Tuyên Quang rồi từ đó, khai phá những miền đất mới, mở rộng địa bàn lên đến vùng Bảo Yên, Bắc Hà (Lào Cai), đi đến đâu đều xây thành bằng đá vững chắc. Đến nay, tại các vùng đất họ đặt chân đến và gây dựng sự nghiệp vẫn còn dấu tích của thành cổ. Hai anh em họ Vũ cùng với tướng Hoàng Vần Thùng có công phát triển kinh tế, xã hội, giúp vua Lê đánh đuổi quân nhà Mạc từ vùng Đông Bắc tràn sang, chặn giặc phương Bắc, bảo vệ bờ cõi miền biên ải. Nhân dân quanh vùng vẫn thường gọi họ là “Chúa Bầu” để ca ngợi đức độ, tài năng, khí tiết của họ.
Khi hai anh em Vũ Văn Mật và Vũ Văn Uyên cùng các tướng lĩnh qua đời tại Trấn Tuyên Quang (Bắc Hà, Lào Cai ngày nay), nhân dân vùng này đã lập đền thờ để tưởng nhớ, hương khói phụng thờ. Cũng từ đó, trải qua thời gian, tín ngưỡng thờ Chúa Bầu đã được đồng bào dân tộc Tày và các dân tộc trong vùng Bắc Hà duy trì, thực hành và lan tỏa đến các vùng khác dọc miền sông Chảy. Với giá trị lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, đền Trung Đô đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp Quốc gia vào tháng 8-2005.
Qua cổng tam quan, bước chân vào không gian ngôi đền cổ Trung Đô, du khách sẽ cảm nhận được sắc màu cổ kính hiện hữu trên từng nét kiến trúc của ngôi đền như cổng, mái ngói, các hoa văn, họa tiết, không gian thờ tự… Đỉnh mái đền có lưỡng long chầu mặt nguyệt, bốn phía là những vòm cong vút tạo tác những nét tài hoa lên nền trời. Bên trong ngôi đền là các ban thờ như gian giữa thờ Tam Đại Võ; thờ ba vị tướng Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật, Hoàng Vần Thùng. Hai gian thờ còn lại thờ các vị thuộc tướng của ba vị tướng trên. Phía sau là ngọn núi cao sừng sững với bạt ngàn cây lá, xa xa là cánh đồng lúa hòa vào những bản làng bình yên. Lễ hội đền Trung Đô được tổ chức vào 2 ngày (14 và 15-7 âm lịch) hằng năm với nhiều nghi lễ và hoạt động văn hóa truyền thống.
 |
Đền Trung Đô là không gian thực hành tín ngưỡng thờ Chúa Bầu ở vùng Tây Bắc. |
Đền cổ Trung Đô là không gian thực hành tín ngưỡng thờ Đức Chúa Bầu, đó là các vị tướng có công lao to lớn với nhân dân, với bờ cõi miền biên ải, là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Ngôi đền cũng là minh chứng cho lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí dựng xây quê hương, gìn giữ bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc vùng Tây Bắc.
Ngôi đền bên dòng Nặm Luông
Từ vị trí ngôi đền Trung Đô thuộc vùng đất Bảo Nhai, hành trình qua xã Bắc Hà, theo hướng xã Bản Liền rồi chạm đến vùng đất Nghĩa Đô, chúng tôi tiếp tục chặng đường mà người Nghĩa Đô xưa coi đây là con đường gian nan, vất vả để đi đến Trung Đô xin nhánh đền về Mường Khuông, quãng đường qua bao con suối, bao ngọn núi cao dài tới hơn 100km. Từ xã Tân Tiến, xuôi theo dòng Nặm Luông trong mát để về đất Nghĩa Đô (xưa là Mường Khuông). Người dân vùng Nghĩa Đô kể rằng, dòng Nặm Luông bắt nguồn từ vùng đất Bản Liền, chảy qua những khu rừng, qua những vực cuộn xoáy, tạo nên dòng thác Xa Nghĩa Đô rồi khi gặp thung lũng Mường Khuông thì hiền hòa, thơ mộng, uốn quanh những bản làng bình yên.
Thung lũng Mường Khuông là nơi quần tụ những bản làng nhà sàn của đồng bào dân tộc Tày từ lâu đời. Bao bọc xung quanh là những ngọn núi cao trùng điệp như ngọn Khau Rịa, Khau Choong, Khau Ái, Khau Cấn. Nơi đây, dưới chân núi Pú Chè cao sừng sững, hướng nhìn ra dòng Nặm Luông trong mát, tọa lạc ngôi đền Nghĩa Đô, một điểm nhấn tâm linh trong đời sống của cư dân nơi đây. Gặp và trò chuyện cũng như nghiên cứu các tư liệu sưu tầm, ghi chép của Nghệ nhân Ưu tú Ma Thanh Sợi (Bản Rịa, xã Nghĩa Đô), chúng tôi được gợi mở về “sợi dây” kết nối giữa hai ngôi đền Trung Đô và Nghĩa Đô.
Theo lời kể của nghệ nhân Ma Thanh Sợi, vào những năm 1740-1760 ở vùng đất Mường Khuông, nạn cướp bóc, giết chóc diễn ra triền miên do những kẻ ở vùng khác gây nên. Điều đó dẫn đến sự bất an trong đời sống tinh thần và nạn đói, thiên tai, địch họa luôn hiện hữu trong cuộc sống của người dân Mường Luông. Vì vậy, những bậc cao niên cùng những người đàn ông ở trong các bản của Mường Khuông cùng nhau họp bàn, đi cầu về một vị nhân thần, lập đền thờ để làm điểm tựa tâm linh. Đây cũng là ý tưởng và hành động bắt đầu cho hành trình ngược Bắc Hà xin nhánh đền Trung Đô.
 |
Đền Nghĩa Đô, không gian tâm linh minh chứng cho sự giao thoa văn hóa của hai ngôi đền. |
Thời gian, con đường đi xin nhánh đền của người dân Mường Khuông khá dài lâu và gian nan, kéo dài nhiều năm mới thành công. Ba người đầu tiên được cử đi Trung Đô xin nhánh đền lần thứ nhất vào năm Đinh Mùi (1847) là ông Hoàng Văn Tếp, ông Lương Văn Thỏi, ông Cổ Văn Nhập và cấp cho 10 đồng bạc trắng để đi đường. Lần thứ 2 sau khi được đền Trung Đô chấp thuận, đoàn tiếp tục đi vào ngày 10 tháng 7 năm Đinh Mùi (1847). Lần đi này, ông Cổ Văn Nhập bị ốm nặng dọc đường và qua đời nên không thành công. Chuyến thứ ba, vào tháng Giêng năm Mậu Thân (1848) do chưa mãn tang ông Nhập nên phải đợi đến năm sau. Chuyến thứ tư vào ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Dậu (1849) do các ông Hoàng Văn Tếp, Lương Văn Thỏi, Nguyễn Văn Cịu cùng đi. Đền Trung Đô giao cho đoàn 1 cái chuông đồng nhỏ, 1 cái lọ cắm nhang, 3 chân que hương, 1 tờ có chữ Nho bằng giấy bản, 2 lá cờ xí khổ rộng 1,1x1,2m và 2 cái mác cắm vào đầu cán cờ, 2 bộ đồ tế của Quánh Vĩ, thầy Thại. Sau khi xin được nhánh đền Trung Đô trở về, người dân Mường Luông phải trải qua một năm tìm đất để dựng đền.
Sau nhiều lần tìm thế đất, đến năm Canh Tuất (1850), người dân nơi đây mới tìm được vị trí địa linh dưới chân núi Pú Chè theo hướng mặt trời mọc, nhìn thẳng ra dòng Nặm Luông (vị trí của ngôi đền được phục dựng ngày nay). Người dân Mường Khuông đã tổ chức diễn xướng nghi lễ thờ Chúa Bầu thông qua việc thờ cúng, lễ hội mang đậm màu sắc văn hóa, tâm linh của dân tộc Tày trong nhiều năm dài. Cũng từ đó, cuộc sống của cư dân các bản làng Tày của Mường Luông trở nên yên ổn, ấm no, không còn nạn cướp bóc, chém giết như trước. Người dân Mường Khuông đã tìm được điểm tựa tâm linh trong niềm tin tín ngưỡng và lòng biết ơn công lao của Đức Chúa Bầu.
Để tỏ lòng biết ơn với Trung Đô, nhằm tạo sợi dây tình nghĩa giữa hai vùng đất, người dân trong bản Tày Mường Khuông đã quyết định đổi tên vùng đất này từ “Mường Khuông” thành “Nghĩa Đô” (Tiếng Tày là Nghịa Đô: Nghĩa là tình nghĩa, Đô gắn với địa danh Trung Đô). Trải qua thời gian, chiến tranh, thiên tai, ngôi đền gỗ ban đầu bị đổ chỉ còn nền móng cũ. Ngày 14 tháng 7 năm Tân Sửu (22-8-2021), đền Nghĩa Đô chính thức làm lễ khánh thành việc phục dựng lại đền. Ngày 23-12-2016, đền Nghĩa Đô chính thức được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh.
Mạch nguồn chảy mãi
Lịch sử hình thành và quá trình bảo tồn của đền Trung Đô và đền Nghĩa Đô tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Chúa Bầu nơi vùng Tây Bắc. Đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phục dựng ngôi đền Nghĩa Đô là minh chứng tiêu biểu cho mạch nguồn nối liền hai ngôi đền cho dù cách xa về khoảng cách địa lý. Hai ngôi đền đều là không gian tín ngưỡng thờ Đức Chúa Bầu, đó là các vị tướng như Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật, Hoàng Vần Thùng, những người có công lao to lớn với nhân dân, với bờ cõi miền biên ải. Đây là một tín ngưỡng nổi bật ở vùng Tây Bắc, được đồng bào dân tộc Tày và một số dân tộc khác thực hành và lan tỏa trong đời sống văn hóa tinh thần, là bệ đỡ tâm linh của nhân dân miền biên viễn.
Đền Trung Đô được đồng bào dân tộc Tày dựng lên để phụng thờ anh em họ Vũ, khi xin được nhánh đền về vùng đất Nghĩa Đô thì nơi đây cũng là địa bàn sinh sống lâu đời của đồng bào Tày. Vì thế, cả hai ngôi đền đều do người Tày xây dựng, gìn giữ, thực hành tín ngưỡng và phục dựng. Hằng năm, lễ hội của hai ngôi đền được đồng bào dân tộc Tày tổ chức với các nghi lễ truyền thống mang đậm bản sắc như lễ rước kiệu trâu, lễ cúng tế trâu, lễ hội cầu đền và các lễ vật như xôi, gà, rượu, bánh, lễ dâng cốm, các lễ hội mùa xuân… cùng các hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền.
Hai ngôi đền được xây dựng ngay trên vùng đất xưa, nơi anh em Chúa Bầu cùng nhân dân xây thành đắp lũy. Vì thế, ở hai vùng đất nơi hai ngôi đền tọa lạc, lòng biết ơn và tri ân công đức của Chúa Bầu in sâu vào tiềm thức của nhân dân. Họ luôn có ý thức gìn giữ, tôn vinh và thực hành tín ngưỡng trong đời sống. Hai vùng đất còn lưu giữ chứng tích thành cổ quan trọng về quá trình khai khẩn, phát triển kinh tế và bảo vệ bờ cõi của anh em Chúa Bầu. Đó là thành cổ Trung Đô (xây dựng thế kỷ XVIII tại xã Bắc Hà), thành cổ Nghị Lang (xây dựng thế kỷ XVI tại xã Bảo Yên). Đó là những trầm tích lịch sử, văn hóa cho quá trình xây dựng và bảo vệ dân tộc của cha ông ta trong quá khứ hào hùng. Bởi vậy, hai ngôi đền còn là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí xây dựng quê hương đất nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Đền Trung Đô và đền Nghĩa Đô hội tụ những giá trị văn hóa tâm linh, đó là các phong tục thờ, cúng lễ cổ truyền, niềm tin vào các bậc anh hùng, các bậc thần thánh đã che chở, bảo vệ quê hương, làng bản, con người. Hai ngôi Đền là di tích lịch sử, điểm tựa tâm linh của đồng bào dân tộc Tày và các dân tộc sinh sống trên hai vùng đất. Chính quyền cùng nhân dân hai địa phương không ngừng gìn giữ, tổ chức các nghi lễ truyền thống và giới thiệu, quảng bá đối với du khách trong chuyến khám phá du lịch.
Trong giai đoạn hiện nay, các địa phương như Bắc Hà, Bảo Yên của tỉnh Lào Cai đã và đang phát triển du lịch với phương châm phát huy, quảng bá bản sắc văn hóa truyền thống. Hai ngôi đền là điểm nhấn trong phát triển du lịch tâm linh của các địa phương. Nơi đây là điểm đến chiêm bái và thụ hưởng văn hóa tâm linh của du khách mọi miền để mỗi người có thêm những trải nghiệm về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng trong sự giao thoa mạch nguồn văn hóa.
Mạch nguồn văn hóa chính là yếu tố quan trọng, bền vững để hai ngôi đền Trung Đô và Nghĩa Đô được hình thành, diễn xướng nghi lễ, trường tồn cùng năm tháng và có sức sống mãnh liệt trong tâm thức của nhân dân. Hai ngôi đền cũng là minh chứng cho lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí dựng xây quê hương, gìn giữ bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc vùng Tây Bắc.
NGUYỄN THẾ LƯỢNG
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.