Sớm Tà Xùa – nơi bàn tay chạm mây

Khi bình minh chưa kịp ló rạng, sương đã phủ kín các triền đồi Tà Xùa. Giữa màn sương trắng, bản làng ẩn hiện như tranh, tiếng gà gáy, tiếng gió và tiếng bước chân người hòa vào nhau, đánh thức một ngày mới nơi lưng chừng trời.

Tà Xùa chào ngày mới bằng hơi lạnh tê người và mùi đất ẩm ngai ngái. Khi sương vẫn còn quẩn quanh ngọn cỏ, bản làng còn mờ trong màn trắng xóa, những người Mông đã lặng lẽ gùi dao, ấm nước, túi vải lên núi hái chè.

Bản làng chìm trong sương sớm. 

Con đường dẫn vào rừng dốc đứng, trơn trượt bởi lớp rêu xanh như phủ lớp ngọc mỏng. Bước chân quen thuộc trên từng hốc đá, vợ chồng anh A Lừ ở bản Bẹ đã hơn 10 năm gắn bó với rừng chè Shan tuyết, coi từng gốc cây như người bạn thân thiết.

“Phải đi sớm mới kịp hái chè còn ngậm sương”, anh vừa nói vừa bước. “Khi mặt trời lên, lá khô, hương mất, chè chẳng còn giữ được ‘hồn núi’ nữa”.

 Con đường quen thuộc anh A Lừ vẫn thường đi qua để thu hoạch chè.

Tại Việt Nam, có bốn vùng trà quý được xem như “tứ đại danh trà” gồm: Tà Xùa (Sơn La), Suối Giàng (Yên Bái, nay là Lào Cai), Tây Côn Lĩnh (Hà Giang, nay là Tuyên Quang) và Tân Cương (Thái Nguyên). Riêng vùng trà Tà Xùa với quần thể trà Shan tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi, bốn mùa trú ngụ trong sương núi ở độ cao trên 1.700m được dân trong nghề đánh giá là có chất lượng hàng đầu. Đặc biệt là dòng trà xanh Tà Xùa với hương thơm sâu và vị êm nhẹ đặc trưng không thể lẫn. Mỗi ngụm trà là kết tinh của sương, gió và tình người, mộc mạc, chân thành như chính cuộc sống của người Mông giữa lưng trời Tà Xùa.

 Người dân thu hoạch chè.

Để thu hoạch chè, người Mông không dùng dao hay kéo, họ hái bằng tay, nhẹ nhàng và chậm rãi. “Phải ngắt đúng một tôm hai lá. Vặt mạnh cây đau, mà cây đau thì năm sau ít ra búp. Chè cũng là sinh linh, phải thương nó như thương người”, anh A Lừ nói, đôi bàn tay chai sạn khéo léo ngắt từng búp nhỏ.

Hương khói bếp – nơi trà thức giấc giữa lửa

Nắng trưa tràn xuống sườn núi. Gùi chè đầy đã trĩu vai, vợ chồng anh A Lừ men theo con đường nhỏ trở về bản. Mùi chè tươi nồng lên trong gió, quyện cùng mùi mồ hôi và hơi đất. Mỗi mùa hái trà là một mùa vất vả, nhưng cũng là mùa hạnh phúc, khi rừng lại ban tặng cho con người “vàng xanh” của mình.

Mỗi công đoạn sản xuất chè đều được vợ chồng anh A Lừ chế biến vô cùng tỉ mỉ. 

Trong căn bếp gỗ nhỏ của anh chị, ngọn lửa bập bùng đã được nhóm lên. Chiếc chảo gang đen bóng đặt giữa gian nhà ấm sực hơi khói. Anh Lừ thoăn thoắt tiếp củi, còn chị Pla đổ những búp chè non lên chảo, đôi tay đảo đều và nhanh, từng cử động dứt khoát mà mềm mại.

“Phải sao vừa tay, vừa lửa, không để cháy. Chè mà khét là hỏng hương ngay”, chị nói, không rời mắt khỏi chảo. “Khi nghe tiếng lá kêu nhỏ, ngửi thấy hương chè ‘thở’ ra, lúc đó mới hạ lửa. Chè lúc ấy mới ngấm được khói bếp – hương đặc trưng của Tà Xùa”.

Căn bếp với đầy đủ các công cụ đã sẵn sàng cho công đoạn sao chè. 

Khói bếp cuộn vào từng búp chè non, tạo nên mùi thơm nồng nàn, sâu và ấm. Ở đây, khói không chỉ là hương mà còn là linh hồn của núi rừng, là dấu ấn của bàn tay người Mông, của sự kiên nhẫn và cần mẫn suốt bao năm giữ nghề. Mỗi mẻ chè là một câu chuyện kể bằng lửa, khói và tình người.

Tiếng củi nổ tí tách, tiếng xào xạc của lá khô hòa thành bản nhạc mộc mạc của núi rừng. Khói bếp len vào từng thớ gỗ, quyện vào mùi trà, để rồi lưu lại hương thơm sâu, ấm và dai dẳng. Ở Tà Xùa, người ta nói “khói giữ hồn trà”, bởi khói bếp chính là phần linh hồn của mỗi mẻ chè.

Khi mẻ chè đầu tiên hoàn tất, chị Pla múc ít chè cho vào ấm đất, rót nước sôi. Hơi trà bốc lên, trong veo như sương. Màu nước vàng nhạt, ánh nắng cuối ngày phản chiếu qua khung cửa gỗ làm nước trà sáng lên như mật ong.

Người dân pha trà và thưởng thức hương vị trà sau khi chế biến. 

Anh A Lừ nâng chén, khẽ nhấp. Vị chát nhẹ tan nhanh, để lại vị ngọt hậu lan xuống cổ họng. “Vị này là vị của rừng, của sương và khói. Uống vào thấy ấm người như có hơi đất trong tim”.

Hạt ngọc trên triền đá và hành trình giữ thương hiệu xanh

Chiều muộn, khắp bản Tà Xùa ngào ngạt mùi chè khô mới sao. Ánh nắng cuối cùng rải lên những sợi chè xoắn tròn, ánh bạc lung linh. “Nhà tôi có chục gốc chè cổ, mỗi năm chỉ được vài chục ký khô. Ít thôi, nhưng đó là lộc của rừng, đủ cho cái Tết”, anh A Lừ nói, tay nâng nhẹ mẻ chè mới.

Ở Tà Xùa, chè không chỉ là cây trồng mà là biểu tượng của văn hóa sống. Mỗi đồi chè là một phần ký ức của bản làng. Người Mông nơi đây sinh ra bên triền đá, lớn lên trong hương khói trà, gửi cả đời mình trong vị ngọt đắng của núi. Họ nói, mỗi búp trà Shan Tuyết là “hạt ngọc mọc lên từ đá”, là minh chứng cho sự kiên cường của con người vùng cao.

Bà con trong làng cùng nhau sơ chế chè sau khi thu hoạch. 

Tại Hợp tác xã Nông nghiệp và dược liệu Háng Đồng, ông Thào A Trống, đại diện hợp tác xã cho biết: “Trước đây người dân chỉ hái và sao chè thủ công để bán lẻ, giá trị chưa cao. Giờ chúng tôi hướng đến làm thương hiệu OCOP, xây dựng quy trình chế biến, đóng gói, truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Mỗi cân chè bán ra không chỉ là sản phẩm, mà còn là câu chuyện về đất, về người Tà Xùa”.

Trước nguy cơ một số vùng chè cổ bị khai thác quá mức, anh Giàng Páo Manh, cán bộ Kiểm lâm phụ trách Khu rừng đặc dụng Tà Xùa, chia sẻ: “Chúng tôi phối hợp với người dân để bảo vệ rừng và phục hồi những cây chè cổ thụ. Mục tiêu là vừa bảo tồn giống chè quý, vừa giữ sinh cảnh tự nhiên cho vùng lõi. Phát triển phải đi cùng gìn giữ, đó là cách duy nhất để Tà Xùa vừa có rừng, vừa có trà”.

Anh Giàng Páo Manh (đứng thứ 2 từ trái qua) vẫn hằng ngày tuần tra rừng đều đặn. 

Khi mặt trời lặn hẳn sau dãy Hoàng Liên Sơn, khói bếp lại bay lên từ nóc nhà. Hương chè Shan tuyết len vào sương, vấn vít quanh bản nhỏ. Giữa làn gió lạnh cuối ngày, chén trà ấm trên tay người Mông như giữ lại hơi ấm của đại ngàn.

Ở nơi lưng trời ấy, cây chè Shan tuyết vẫn trụ vững qua bao mùa gió sương, như minh chứng cho sức sống bền bỉ của người vùng cao. Mỗi búp chè là lời kể của rừng, là hồn cốt của đất, là sợi dây nối con người với thiên nhiên qua bao thế hệ.

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.