Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bước vào xây dựng hòa bình, tháng 6-1976, Đoàn 559 đã sáp nhập thêm đơn vị tôi đang làm việc là Cục Kiến thiết cơ bản, Tổng cục Hậu cần trở thành Tổng cục Xây dựng Kinh tế, do Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên làm chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm là các Đại tá: Nguyễn Lang, Phan Khắc Hy, Đào Hữu Liêu. Ngày đó tôi là thiếu úy, kỹ sư, trợ lý kỹ thuật.
Một buổi tối sau ngày sáp nhập, tôi được gọi lên báo cáo trực tiếp công việc với Phó chủ nhiệm Tổng cục, Đại tá Phan Khắc Hy. Lần đầu tiên được gặp thủ trưởng cấp cao, tôi hơi lúng túng và thủ trưởng Hy đã vui vẻ động viên tôi nói hết những điều cần nói về công việc. Sau lần ấy, tôi còn có nhiều dịp đi công tác cùng thủ trưởng. Trong đời thường, ông là người rất giản dị, gần gũi cấp dưới, tôi đã nhiều lần được nghe ông kể những kỷ niệm thời chiến cũng như thời bình. Năm 1980, Đại tá Phan Khắc Hy được thăng quân hàm Thiếu tướng. Và dưới đây tôi gộp lại các câu chuyện kể của Thiếu tướng Phan Khắc Hy:
 |
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên (đi đầu, bên phải) và Phó tư lệnh Phan Khắc Hy (đứng sau) đến giao nhiệm vụ và động viên chiến sĩ Tiểu đoàn 102, Binh trạm 12, đơn vị mũi nhọn trong Chiến dịch mùa khô năm 1972.
|
"Quãng đời chiến đấu của tôi có ba thử thách đáng nhớ. Thử thách đầu đời đi làm cách mạng. Từ năm 1947 đến 1949 tôi là Huyện đội trưởng, kiêm Bí thư Huyện ủy Bố Trạch, nơi tôi sinh ra và lớn lên (quê gốc tôi thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ngày 27-3-1947, giặc Pháp đánh chiếm Bố Trạch, lúc đầu ta chủ trương vườn không nhà trống, nhưng qua 5 ngày chạy giặc, lương thực cạn dần, dân quân du kích lo cho gia đình không thể chiến đấu. Trước tình hình ấy, tôi cùng Đảng bộ huyện nhanh chóng thay đổi chủ trương, rút mỗi xã 5 du kích trung kiên để tập trung thành một đội du kích huyện đóng dưới chân núi Ba Rền. Đội du kích đã cùng nhân dân các xã sáng tạo nhiều cách đánh, kìm chân quân Pháp. Những làng chiến đấu kiểu mẫu như Cự Nẫm, Hoàn Lão, Hòa Duyệt… sau này được ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 4 biểu dương. Tháng 5-1949, tôi trúng cử Tỉnh ủy viên, phụ trách quân sự và một năm sau tôi là Tỉnh đội trưởng, Phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình.
Thử thách thứ hai khi tôi chuyển sang Quân chủng Phòng không - Không quân. Ngày 3-3-1955 Ban nghiên cứu sân bay ra đời, giúp Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị phương án xây dựng không quân. Năm sau, Ban chuyển thành Cục Không quân do anh Đặng Tính làm Cục trưởng, tôi được điều về làm Chủ nhiệm Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy. Chúng tôi lựa chọn những chiến sĩ trẻ, khỏe đã qua chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu tập trung bồi dưỡng thể lực và trình độ văn hóa đạt chuẩn tốt nghiệp cấp 3 phổ thông, có điểm tốt ba môn chính là toán, lý, hóa, cử đi học “bay” ở Trung Quốc và Liên Xô.
Tháng 8-1964, Hồ Chủ tịch đến thăm Trung đoàn Không quân 921, Người căn dặn: “Ngày trước tổ tiên ta từng thắng giặc trên biển trên sông, trên đất liền như Bạch Đằng, Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa. Ngày nay các chú phải mở mặt trận trên không thắng lợi”. Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 3-4-1965 biên đội Phạm Ngọc Lan bắn rơi 2 chiếc F8U của hải quân Mỹ và ngày hôm sau, biên đội Trần Hanh bắn rơi 2 chiếc F105 trên bầu trời Hàm Rồng, Thanh Hóa. Không quân ta cành đánh càng mạnh.
Tháng 3-1967, trước sự phát triển của lực lượng không quân, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định thành lập Bộ tư lệnh Không quân. Anh Nguyễn Văn Tiên làm Tư lệnh, tôi làm Chính ủy. Trong ký ức tôi vẫn không thể nào quên ngày Bác Hồ đến thăm đơn vị. Đúng 6 giờ sáng ngày mồng 1 Tết Đinh mùi (9-2-1967) anh Phùng Thế Tài, Tư lệnh Quân chủng và tôi lên sân bay Nội Bài chuẩn bị đón Bác đến thăm và chúc Tết Trung đoàn Không quân tiêm kích 921, đơn vị có nhiều thành tích chiến đấu trong năm 1966, bắn rơi 54 máy bay Mỹ trong đó có 45 chiếc rơi tại chỗ.
Bác đến cùng Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và đồng chí Tố Hữu, Bí thư Trung ương Đảng. Bác vẫy chào bộ đội và mọi người, tất cả đồng thanh hô "Hồ Chủ tịch muôn năm!". Bác đi duyệt hàng quân. Người dừng trước một chiến sĩ trẻ mặc áo trấn thủ hỏi: "Cháu mặc có đủ ấm không?". Anh chiến sĩ xúc động trả lời: "Dạ, có ạ". Đi hết lượt hàng quân, Bác đến chiếc bàn đã để sẵn quà của Bác tặng bộ đội, Bác nói: “Bác cùng các chú Văn Tiến Dũng, Tố Hữu thay mặt Đảng, Chính phủ đến chúc Tết các chú. Trước hết, chú Tố Hữu sẽ đọc thơ xuân mừng các chú". Thế rồi nhà thơ đọc bài vừa sáng tác: "Chào xuân 1967, đoạn cuối như thúc giục mọi người xung trận: Ôi sáng xuân nay, như lưỡi gươm trần sáng quắc/Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung/Thúc giục cả hai miền Nam-Bắc/Hãy xung phong! Hỡi xuân 1969 anh hùng”. Tiếng vỗ tay vừa dứt, Bác chỉ tay vào các gói quà trên bàn, nói: "Bác có cái này ngọt hơn thơ chú Tố Hữu, tặng các chú". Mọi người cười vui và vỗ tay ran.
Rồi bác biểu dương thành tích chiến đấu và xây dựng của bộ đội Phòng không-Không quân trong năm qua. Người căn dặn: "Các chú phải chăm học tập rèn luyện hơn nữa. Càng học tập càng tiến bộ thì đánh địch càng giành thắng lợi. Bác chúc Không quân nhân dân đoàn kết, học tập tiến bộ, đánh giỏi, đạt nhiều thắng lợi mới. Nói xong Bác tạm biệt mọi người để đi chúc Tết các địa phương và đơn vị khác. Tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm” cùng tiếng vỗ tay vang dội của bộ đội chào tiễn Bác.
Sau buổi đón Bác, chúng tôi trở về đơn vị vùi đầu vào công việc. Đến năm 1971, tôi được điều vào Bộ tư lệnh 559, Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh. Trước khi lên đường, Cục Chính trị tổ chức gặp mặt chia tay tôi, lúc này phòng Tuyên huấn mới đưa ra một bức ảnh đồng chí Xuân Mai phóng viên Báo Quân chủng chụp tại Trung đoàn 921, tôi đứng sau Bác và Bác chỉ tay vào gói quà, mọi người xung quanh đều vỗ tay cười trước lời nói thân mật và hóm hỉnh của Bác. Bức ảnh này trở thành kỷ niệm quý giá của tôi và gia đình tôi.
Thử thách thứ ba là năm 1971, tôi vào Trường Sơn, làm Phó tư lệnh Đoàn 559. Trong cuộc đời quân ngũ lâu dài của tôi, tôi chỉ có 5 năm là “lính” Trường Sơn, nhưng đó là những năm tháng hào hùng khó quên. Ngày mới về từ Quân chủng Phòng không - Không quân, tôi nghĩ mình là “lính mới”, nên đã theo học từng buổi lên lớp của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên. Rồi anh Nguyên bảo, trên quyết định anh sang quân sự làm Phó tư lệnh giúp tôi. Tôi trả lời ngay: "Xin hứa dù hoàn cảnh nào cũng làm tốt cương vị được giao".
Buổi đầu tôi đi kiểm tra và chỉ đạo công tác vượt cửa khẩu ở Binh trạm 12. Nhiều người bảo tôi cười tươi, nhưng thực ra cười bằng răng giả đấy. Tôi bị thương mất luôn hai hàm răng trong chuyến công tác đầu tiên ở Trường Sơn. Ngày 26-9-1971 tôi cùng binh trạm trưởng Khúc Trường Thành đi trọng điểm Xiêng Phan. Khu vực núi đá hiểm trở. Địch ném bom ác liệt, chóp núi bị bom phạt cụt ngọn. Trong lúc chúng tôi đi bộ quan sát thì địch ném bom vào khu vực giấu xe. Khi chúng tôi chuẩn bị về thì công binh phát hiện một quả bom khoan sâu xuống đất. Công binh dùng xe phóng từ phá bom, nhưng bom không nổ, cho đây là bom nổ chậm, cần tranh thủ cho xe vượt qua. Không ngờ khi bánh xe vừa chạm đến thì bom nổ, hất tung chiếc xe của tôi lên cao rồi lật úp xuống mặt đường. Chúng tôi bị văng ra xa cả chục mét. Tôi bị chấn thương nặng, bất tỉnh tại chỗ. Mọi người tưởng tôi bị nặng nhất, khó qua khỏi, nhưng không ngờ khi đưa về binh trạm bộ thì anh Thành hy sinh đầu tiên vì bị chấn thương não. Tôi bị thương nặng ở mặt và lưng, bị gãy cả hàm răng. Thương tiếc binh trạm trưởng Thành vô cùng! Đó là con người dũng cảm, tận tụy được anh em rất yêu mến. Sau đó ta mới biết Mỹ vừa đưa vào sử dụng loại bom từ trường mới, cải tiến lần 3 (Model 3), ngòi nổ hẹn giờ khi tắt khi mở nên kỹ thuật phóng từ của ta không phát huy tác dụng, sau này ta mới biết cách đối phó với loại bom này bằng phương pháp tháo ngòi nổ và kích nổ bằng mìn.
Ba tháng sau tôi đi viện về, tại trọng điểm Sê Băng Hiên lại gặp một tình huống đau lòng khác. Có đoàn văn công tỉnh Vĩnh Phúc vào chiến trường phục vụ. Trong đoàn có cô diễn viên trẻ gặp một chiến sĩ của Đoàn 559, là đồng hương với cô và họ yêu nhau. Tình cảm của đôi trẻ thật hồn nhiên trong sáng. Đêm hôm ấy khi đoàn văn công chuẩn bị biểu diễn thì máy bay địch ập đến ném bom ở tuyến đường trọng điểm, người chiến sĩ trẻ ấy ra tuyến đường khắc phục hậu quả thì hy sinh. Vừa lên sân khấu chuẩn bị hát thì cô diễn viên nghe hung tin. Cô nghẹn lời, nước mắt giàn giụa, tôi lên sân khấu động viên, an ủi, cứ nghĩ cô không thể hát và đi xuống. Nhưng cô lau nước mắt, đứng hát. Hàng trăm cán bộ chiến sĩ bên dưới đều rơi nước mắt. Đến mùa xuân năm 1973, thêm một lần nữa tôi rơi lệ. Lần ấy Chính ủy Đặng Tính lên đường đi công tác ở cao nguyên Bô Lô Ven (Lào). Do anh lái xe của chính ủy bị ốm, nên tôi điều động anh Bản, lái xe của tôi đi thay. Khi đưa chính ủy đi qua khu vực có mìn của địch, anh em đã cẩn thận cho một chiếc xe tải đi trước, xe chính ủy đi sau bám vào vệt bánh xe trước. Cẩn thận thế mà xe chính ủy vẫn vấp mìn chống tăng của địch. Anh Đặng Tính là người anh, người thầy của tôi, chúng tôi gắn bó với nhau từ thời ở Quân chủng Phòng không - Không quân, lúc anh là Tư lệnh kiêm Chính ủy thì tôi là Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng. Anh là một cán bộ liêm chính mẫu mực, học trò xuất sắc của Bác Hồ.
Thời gian ở Đoàn 559, tôi gắn bó nhiều với Bộ Tư lệnh Miền Nam (B2) tổ chức Chiến dịch Nguyễn Huệ, một hướng chiến trường phối hợp với Chiến trường Tây Nguyên, chiến trường Đường 9 Quảng Trị trong cuộc tổng tiến công chiến lược 1972. Chiến dịch này diễn ra trong 10 tháng. Ta tiêu diệt 5 chiến đoàn địch, đánh bại Sư đoàn 5 ngụy, giải phóng một vùng rộng lớn gồm các huyện của các tỉnh Phước Long, Bình Long, Tây Ninh, trong đó có thị trấn Lộc Ninh, trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nguồn chi viện từ Bắc vào đường Hồ Chí Minh được tăng cường. Chiến trường B2 không những nhận được hàng chục vạn quân, mà còn có cả xe tăng pháo lớn.
Trong 2 năm 1973-1974 tuyến chi viện đường Hồ Chí Minh đã đưa vào Nam Bộ hơn 5 vạn quân cùng nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại, tạo điều kiện cho Bộ tư lệnh miền tổ chức các đơn vị chủ lực cấp quân đoàn, sư đoàn, lữ đoàn. Đến mùa khô 1974-1975 đường vận chuyển cơ giới và đường thông tin chiến lược được hoàn tất, tạo ra một sự thông suốt chưa từng có từ miền Bắc vào Nam Bộ, mở ra khả năng lớn về vận chuyển chi viện cũng như sự chỉ đạo nhanh chóng kịp thời từ Trung ương vào Nam Bộ. Tại căn cứ Lộc Ninh, đoạn cuối Đường Hồ Chí Minh, lực lượng Bộ đội Trường Sơn gồm 2 sư đoàn công binh 472 và 470, hai sư đoàn ô tô 471 và 571, Trung đoàn đường ống 592, Trung đoàn Thông tin 49, cùng lực lượng của Cục Hậu cần miền đã đảm bảo những yêu cầu cơ bản của Chiến dịch Hồ Chí Minh, dẫn đến ngày Toàn thắng 30-4-1975.
Năm 1993, tôi nghỉ hưu cùng gia đình vào sống ở TP Hồ Chí Minh. Nhìn lại quãng đời quân ngũ gần nửa thế kỷ, nhất là giai đoạn cuối vào chiến đấu ở Trường Sơn, còn sống lành lặn trở về thế này là quý lắm rồi, trong khi bao đồng đội mãi mãi nằm lại dưới đại ngàn Trường Sơn, họ mới xứng đáng được vinh danh…".
 |
| Thiếu tướng Phan Khắc Hy và vợ tại nhà riêng sau ngày nghỉ hưu. |
Thiếu tướng Phan Khắc Hy sau ngày về hưu còn hoạt động xã hội rất sôi nổi, nhiều năm là Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh TP Hồ Chí Minh. Đồng chí từ trần vào ngày 17-9-2024, hưởng thọ 97 tuổi. Là một cấp dưới, được nhiều lần làm việc trực tiếp với ông, tôi viết bài này như một nén tâm nhanh tưởng nhớ đến ông, một người lính dũng cảm, một người chỉ huy tài năng, đức độ và nhiệt huyết có nhiều đóng góp cho nước cho dân cả trong thời chiến cũng như thời bình.
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Tướng lĩnh Việt Nam xem các tin, bài liên quan.