“Ngược Bắc, xuôi Nam”

Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm sinh năm 1918, tại làng Tân Xuân, huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận (nay là phường Hàm Thắng, tỉnh Lâm Đồng) trong gia đình có 6 anh chị em. Xuất thân trong gia đình khá giả, chàng thanh niên Nguyễn Kèn được gia đình khuyến khích theo học ngành y. Thế nhưng, với lòng yêu nước nồng nàn và nỗi căm thù giặc sâu sắc, cậu đã sớm giác ngộ và chọn gắn bó với con đường binh nghiệp, với nhiều lần “ngược Bắc, xuôi Nam” để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm (hàng đầu, thứ ba từ phải sang) gặp gỡ họ hàng tại quê nhà. Ảnh chụp lại từ hồi ký 

Là người ham học, hoàn thành xong chương trình tiểu học, Nguyễn Thế Lâm rời quê nhà ngược ra Quy Nhơn để học trung học đệ nhất cấp (tương đương trung học cơ sở hiện nay) tại trường Quốc học Quy Nhơn, 1 trong 3 trường quốc học cấp trung học cơ sở ở miền Trung lúc bấy giờ (Quốc học Huế, Quốc học Vinh và Quốc học Quy Nhơn). Sau đó, ông tiếp tục thêm 3 năm dùi mài kinh sử tại cố đô Huế và giành được bằng tú tài toàn phần theo hệ tú tài Pháp.

Thời đó, những người có bằng tú tài toàn phần thường đi làm việc cho chính quyền bảo hộ Pháp. Thế nhưng, Nguyễn Thế Lâm đã chọn cho mình lối đi riêng bằng cách thi vào Đại học Y khoa Hà Nội. Ở thời điểm phong trào yêu nước trong giới học sinh, sinh viên đang diễn ra sôi nổi, chàng sinh viên năng nổ đã sớm giác ngộ, hăng hái tham gia các phong trào yêu nước. Cũng từ đây, Nguyễn Thế Lâm đã được giới thiệu tham gia tổ chức Việt Minh, tích cực tham gia phong trào. Thậm chí, sau 2 năm học ngành y, Nguyễn Thế Lâm đã xin chuyển sang học ngành lâm nghiệp với mong muốn sớm thoát ly đời sinh viên để tham gia cách mạng, khi được biết lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về tới Việt Bắc.

Đồng chí Nguyễn Thế Lâm (hàng đầu, đeo kính) cùng bạn học Trường Quốc học Quy Nhơn. Ảnh chụp lại từ hồi ký 

Năm 1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, phong trào Việt Minh trong giới học sinh, sinh viên ngày càng sôi nổi. Bọn tay sai của Nhật, Pháp cũng ráo riết hoạt động để lôi kéo thanh niên theo chúng. Trước tình hình đó, những thanh niên ở miền Nam và miền Trung hoạt động trong tổ chức đã bày tỏ mong muốn được vào Nam để hoạt động và đã được chấp thuận. Sau khi tham gia một lớp huấn luyện cấp tốc về chương trình hoạt động của đoàn thể trước tình hình mới, Nguyễn Thế Lâm được giao nhiệm vụ trở về Huế để tuyên truyền phong trào cứu quốc và mở rộng lực lượng cứu quốc trong tầng lớp nhân dân. Tại đây, ông đã tham gia Ban Chấp hành Việt Minh tỉnh Thừa Thiên. 

Trong cuốn hồi ký “Ngược Bắc, xuôi Nam” của mình, Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm ghi: “… động cơ yêu nước đã đưa tôi vào tổ chức Việt Minh để tham gia giành độc lập cho đất nước. Đọc lời kêu gọi bí mật của Nguyễn Ái Quốc, biết Người đứng đầu tổ chức Việt Minh của cả nước, tin tưởng ở "vị cứu tinh của dân tộc", tôi đã bắt đầu suy nghĩ, đơn giản như thế trên con đường cứu nước, tìm đến với Đảng”.

Thầy trò Trường Quốc học Huế đi thuyền trên sông Hương năm 1941. Đồng chí Nguyễn Thế Lâm ngồi thứ 4 từ phải sang. Ảnh chụp lại từ hồi ký  

Dấu ấn về tài thao lược trên chiến trường của đồng chí Nguyễn Thế Lâm được thể hiện ngay từ những ngày ra quân cùng với quân và dân Nha Trang vào cuối năm 1945. Đây là lần ra trận đầu tiên của ông trong cuộc chiến chống thực dân Pháp. Trong hơn 3 tháng sát cánh cùng quân và dân Nha Trang, ông cùng đồng đội đã vận dụng xuất sắc những bài học về chiến tranh nhân dân, góp phần chặn bước tiến của quân thù, tạo điều kiện để nhân dân cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc từ ngày 19-12-1946.

Sau khi rời mặt trận Nha Trang, người lính Nguyễn Thế Lâm được giao đảm nhiệm chức vụ Phó trung đoàn trưởng, sau đó là Trung đoàn trưởng. Trong đời binh nghiệp, ông đã nắm giữ nhiều vị trí khác nhau và tham gia nhiều chiến dịch. Năm 1954, ông được điều về làm Phó tham mưu trưởng Binh chủng Pháo binh, sau được cử sang Liên Xô học 5 năm về pháo binh - tên lửa tại Học viện Pháo binh Kalinin ở Leningrad (Saint Petersburg). Kết thúc khóa học năm 1964, ông về nước và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Binh chủng Pháo binh.

Đồng chí Nguyễn Thế Lâm (hàng đầu, thứ hai từ trái sang) tại Học viện Pháo binh Kalinin, Liên Xô. Ảnh chụp lại từ hồi ký

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, giữa năm 1968, đồng chí Nguyễn Thế Lâm nhận lệnh vào chiến trường Trị Thiên - Huế (chiến trường B4), một trong những chiến trường ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với cương vị Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu. Đầu năm 1970, khi tình hình Quân khu Thị Thiên cũng như toàn miền Nam đang từng bước được khôi phục và kiện toàn lực lượng, chuẩn bị cho kế hoạch mới, ông được điều về giữ chức Tư lệnh Binh chủng Thiết giáp (nay là Binh chủng Tăng thiết giáp) và cũng là vị tư lệnh đầu tiên của Binh chủng.

Sau khi tham gia xây dựng xong kế hoạch kiện toàn và phát triển lực lượng tăng thiết giáp, đầu năm 1975, ông được điều về công tác tại Hội đồng Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng. Cùng năm, ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Từ năm 1979-1981, ông công tác tại Học viện Quân sự cấp cao.

Với những cống hiến bền bỉ cho cách mạng, Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm đã được trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công (hạng Nhất và hạng Nhì). Để ghi nhớ công lao của người con ưu tú của quê hương mình, năm 2017, UBND thành phố Phan Thiết đã lấy tên ông để đặt tên cho con đường dài 100m, rộng 9m.

Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ

Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm đã nhiều lần vinh dự được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và đó trở thành những ký ức không thể quên đối với ông.

Lần đầu tiên ông được gặp Bác Hồ là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, khi ông vinh dự được cử ra Hà Nội để báo cáo tình hình chiến đấu của quân và dân Nha Trang. Sau buổi làm việc với Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, ông được bố trí đến Bắc Bộ phủ để trực tiếp báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh "nước sôi lửa bỏng", công việc bộn bề, việc Bác vẫn dành thời gian tiếp đoàn là điều khiến ông vô cùng xúc động và bất ngờ.

Đồng chí Nguyễn Thế Lâm theo dõi cuộc bắn tập của bộ đội thiết giáp ở trường bắn Tam Đảo. Ảnh chụp lại từ hồi ký

Những ngày chiến đấu ở Nha Trang, ông thường nghe các đồng đội kể về “Ông Ké” - Bác Hồ - người từng hoạt động ở chiến khu Cao - Bắc - Lạng. Nay được gặp trực tiếp, ông càng cảm nhận rõ sự gần gũi và tấm lòng của Bác với đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Bác đặc biệt quan tâm đến chiến sự ở các mặt trận phía Nam, hỏi han về đời sống nhân dân và bộ đội Nha Trang.

Trước khi chia tay, Bác phân tích tình hình chiến lược, nhấn mạnh: Quân xâm lược tuy mạnh nhưng có điểm yếu về chính nghĩa; chính quyền và bộ đội ta còn non nhưng sẽ ngày một lớn mạnh nếu toàn dân đồng lòng. Bác nói: “Chúng bị đánh ở khắp nơi, bị đánh bằng mọi thứ, mọi cách, thì thắng lợi ắt hẳn về ta”. Bài học đó, theo Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm, trở thành bài học vỡ lòng về chiến tranh nhân dân, giúp ông vững vàng trở lại chiến trường, tiếp tục bám sát địch, cùng quân dân kháng chiến ở Cực Nam Trung Bộ, từ Bình Thuận đến Khánh Hòa và Tây Nguyên.

Lần thứ hai, vào đầu năm 1959, khi đang công tác tại Binh chủng Pháo binh, ông được Bộ Quốc phòng điều làm sĩ quan cận vệ cho Bác nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad. Dù chưa có kinh nghiệm bảo vệ nguyên thủ, ông đã hoàn thành tốt nhiệm vụ nhờ sự hướng dẫn tận tình từ đồng chí Chánh văn phòng Phủ Chủ tịch Phan Mỹ và sự hỗ trợ từ Đại tá Lê Hòa, người được Tổng cục Chính trị bố trí trực tiếp giúp ông trong công tác đối ngoại.

Trong thời gian phục vụ Bác, ông và Đại tá Lê Hòa ăn, ngủ ngay tại tầng trệt Phủ Chủ tịch. Mỗi ngày, Bác đều tiếp khách theo lịch trình nghiêm ngặt do Văn phòng Chủ tịch nước sắp xếp. Trong những ngày "có một không hai" trong đời ông, Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm thán phục về sức làm việc kỳ diệu của Bác - luôn đúng giờ, khoa học và đầy trách nhiệm.

Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm cũng được chứng kiến cuộc hội đàm giữa Bác và Tổng thống Prasad tại phòng khách Phủ Chủ tịch. Ông xúc động khi thấy rằng, dù lịch trình kín mít, nhưng Bác không quên thăm hỏi, động viên anh em phục vụ.

Khi trực tiếp đưa Tổng thống thăm Trường Đại học Y dược Hà Nội, Bác đã nói chuyện thân mật với sinh viên ngay ở sân trường. Hồi tưởng khung cảnh lúc đó, Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm viết: "Bác và Tổng thống Prasad đứng ở thềm cao trước sân trường nói chuyện thân mật với sinh viên. Chúng tôi luôn đi sát bên cạnh hai vị nguyên thủ quốc gia, trong không khí tiếp xúc trang nghiêm, nhưng thân mật với sinh viên như Bác vẫn thường làm". 

Ngồi trên xe cùng Bác và Tổng thống thăm hợp tác xã Thường Tín, ông cảm nhận được tình cảm mến yêu của đồng bào dành cho Người. Khi xe dừng lại, đồng bào hai bên đường đứng chật ních vẫy tay chào Bác và vị khách nước ngoài. 

7 năm sau đó, ông lại vinh dự được gặp Bác trong cuộc bắn thử A12, loại pháo phản lực được Binh chủng cải tiến từ những vật liệu sẵn có và BM-144 (hay còn gọi là ĐKB).

Ông còn nhớ, ngày hôm đó trời lắc rắc mưa, Bác với chiếc mũ công nhân dạ cũ, bộ quần áo ka-ki bạc trắng, đôi dép lốp đã mòn, xuống xe và bước nhanh tới nơi bộ đội tập hợp. Tại đây, đồng chí Nguyễn Thế Lâm đã trực tiếp báo cáo với Bác về cách thức tổ chức một khẩu đội, phân công nhiệm vụ, hiệp đồng giữa các pháo thủ, thao tác bắn, phương án và khu vực mục tiêu. Tuy nhiên, do báo cáo còn dài và sử dụng từ chưa được thông dụng, Bác nhẹ nhàng uốn nắn: “Bất cứ lúc nào ngôn ngữ quân sự cũng phải ngắn gọn, dễ hiểu”. Nhắc nhở xong, Bác nêu ra những ví dụ cụ thể khiến ai nấy đều "tâm phục, khẩu phục".

Nhìn những thao tác thuần thục của pháo thủ, những trái đạn A12, ĐKB nối tiếp nhau vun vút trong không trung, réo ầm ầm và phụt về phía sau những dải lửa màu cam sáng rực. Bác rất hài lòng.

Khi biết những đơn vị tham gia bắn ngày hôm đó chuẩn bị ra chiến trường, trước khi ra về, Bác căn dặn: Pháo đạn nặng nề, mang vác cồng kềnh, nên khi đi làm nhiệm vụ sẽ gặp nhiều khó khăn. Phải động viên anh em dù khó khăn mấy cũng phải kiên quyết vượt qua để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Nghe Bác nói, một lần nữa ông không giấu được xúc động bởi sự quan tâm, thấu hiểu của Người với những vất vả, gian nan của chiến sĩ pháo binh. Lời động viên, căn dặn của Bác đã trở thành nguồn sức mạnh để những người lính pháo binh, dù khó khăn đến mấy cũng kiên quyết vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ. 

Cũng sau buổi thử nghiệm, pháo A12 và ĐKB đã được triển khai ở nhiều chiến trường và giáng những đòn sấm sét vào kẻ thù. 

Cuối năm 1967, để thực hiện nghị quyết lịch sử của Bộ Chính trị Trung ương Đảng “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định”, Quân ủy Trung ương đã triệu tập hội nghị cán bộ cao cấp để phổ biến nhiệm vụ chiến đấu Xuân Mậu Thân. Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm viết: "Hôm ấy, Bác Hồ đã đến, trông Bác khỏe và vui hơn".

 Đồng chí Nguyễn Thế Lâm (đội mũ) cùng Bác Hồ xem bắn thử đạn pháo cải tiến ở đồi Cốt Củ tháng 4-1966. Ảnh chụp lại từ hồi ký 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần lượt giới thiệu với Bác một số cán bộ chủ chốt của các quân khu, quân chủng, binh chủng. Sau lời giới thiệu, ông cùng đồng chí Chính ủy bước lên để Bác Hồ bắt tay.

“Cầm tay Bác, vẫn như hôm nào đón Bác lên xem bắn pháo, bàn tay Bác ấm, làm cho ấm cả lòng tôi. Vừa sung sướng, vừa cảm động, tôi rơm rớm nước mắt. Và tôi có ngờ đâu đây lại là lần gặp Bác cuối cùng”, Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm viết. 

TRẦN HOÀI (theo Hồi ký “Ngược Bắc xuôi Nam”, Nhà xuất bản Trẻ, 2003)

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Tướng lĩnh Việt Nam xem các tin, bài liên quan.