Lần thứ nhất:

Để chuẩn bị kỷ niệm 50 năm Ngày Truyền thống ngành Chính sách Quân đội (26-2-1947 / 26-2-1997), lãnh đạo Cục Chính sách (Tổng cục Chính trị) đã cử mấy cán bộ đến thăm, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Đại tướng, đồng thời kính mời ông dự lễ kỷ niệm.

Theo kế hoạch đã hợp đồng trước với Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký của Đại tướng, chiều ngày 13 tháng 2 năm 1997, trong tiết trời nắng ấm, mấy anh em chúng tôi đến nhà Đại tướng tại 30 phố Hoàng Diệu (Hà Nội). Trước 3 giờ chiều, theo hướng dẫn của anh Huyên, chúng tôi đã ngồi chờ sẵn tại phòng tiếp khách. Đây là một căn phòng ở tầng một, rộng vừa phải, sạch sẽ, bày biện đơn sơ, ngăn nắp, xung quanh treo mấy bức tranh. Ở sát tường là một tủ sách lớn, trong đó có rất nhiều sách, tạp chí. Giữa phòng là một bộ sa-lông mây. Tôi được biết, tại nhà riêng của Đại tướng có hai phòng tiếp khách. Phòng lớn hơn ở nhà bên cạnh là để tiếp các đoàn đại biểu trong nước và quốc tế đến thăm với số lượng nhiều người, được bài trí tương đối trang trọng, có phần mang tính lễ nghi, đối ngoại. Còn phòng nhỏ là tiếp các đoàn có số lượng ít, thân tình.  

Đúng 3 giờ chiều, trong bộ com-lê màu sáng, Đại tướng từ trong nhà đi ra. Ngày đó, mặc dù đã 86 tuổi, nhưng nhìn ông còn khỏe mạnh. Đại tướng có gương mặt đẹp, nhân từ và sắc sảo, ánh mắt tinh anh, tóc bạc trắng như cước, da dẻ hồng hào, bước đi vững chãi. Ông nở nụ cười đôn hậu, thân mật niềm nở bắt tay và hỏi han từng người.

Anh Huyên giới thiệu tôi với Đại tướng. Ông bắt tay và hỏi tôi với chất giọng Quảng Bình trầm ấm:

-  Đồng chí Cục trưởng quê Nghệ An à, ở huyện nào?

-  Dạ thưa, cháu ở huyện Nghi Lộc ạ.

Ông cười: À, Nghi Lộc, “cà có cuống, cà có đuôi”, phải không?

(Sự thể là, tiếng người Nghi Lộc quê tôi phát âm “cà” và “cá” na ná như nhau, cho nên khi nghe có người vờ như không hiểu, phải hỏi lại là loại cà có cuống hay loại cà có đuôi. Câu hỏi đó lâu nay vẫn được lưu truyền trong mọi người chỉ để đùa vui).

Tôi thưa:

- Dạ, phải ạ!

Chúng tôi cùng cười vui vẻ. Một bậc khai quốc công thần, vị tướng bậc nhất trong lịch sử hiện đại của Việt Nam, tiếp chúng tôi một cách thân tình, dung dị. Thật sự, chúng tôi coi đây là một vinh hạnh, mừng và xúc động lắm.  

Sau khi đã yên vị, Đại tướng đi thẳng vào việc:

- Ta bắt đầu nhé. Tôi đã nghe anh Huyên báo cáo, hôm nay các đồng chí Cục Chính sách đến thăm, báo cáo tình hình công tác chính sách và cho biết việc chuẩn bị kỷ niệm 50 năm Ngành Chính sách quân đội. Chính sách là một mặt công tác rất quan trọng. Cả trong và ngoài quân đội đều vậy. Nào, bây giờ đồng chí Cục trưởng trình bày đi.

Tôi cầm quyển sổ đứng dậy báo cáo. Đại tướng vẫy tay:

- Thôi, chỉ mấy người thôi, đồng chí cứ ngồi báo cáo cũng được, rồi chúng ta còn trao đổi nữa.

Nghe Đại tướng nói vậy, tôi xin phép được ngồi.

Vậy là, cùng ngồi với ông trên chiếc đi-văng, tôi mở sổ công tác, theo phần đã chuẩn bị sẵn, lần lượt báo cáo một cách từ tốn, rành rọt từng nội dung. Thời gian tôi báo cáo khoảng 25 phút. Vừa báo cáo, tôi vừa ngước nhìn sang ông. Ông chăm chú nghe, dõi theo từng nội dung. Thỉnh thoảng, tôi thấy ông gật đầu, rồi gõ ngón tay trỏ xuống bàn như thể biểu dương, khích lệ, tán đồng. Điều đó truyền cho tôi cảm hứng phấn chấn, thêm tự tin trong khi báo cáo.

 Ngày 27-7-1969, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm các thương binh đang điều trị tại Quân y viện 108 (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108). Ảnh: TTXVN

Sau khi nghe xong, Đại tướng biểu dương nội dung báo cáo của Cục Chính sách và dành nhiều thời gian nói chuyện với anh em chúng tôi. Ông nói về tính tất yếu khách quan, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Ông cho rằng, ngay sau Ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) và trước đó nữa, kể từ khi Nam Bộ kháng chiến, cho đến ngày toàn thắng 30-4-1975, rồi tiếp đến cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế, ròng rã hơn 30 năm chiến tranh. Trước họa xâm lăng, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, lớp lớp thanh niên thuộc nhiều thế hệ nối tiếp nhau lên đường chiến đấu. Trong cuộc chiến đấu sinh tử, vô cùng cam go ác liệt, đầy gian khổ, hy sinh, hơn một triệu cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng ngã xuống, hàng chục vạn người đã bỏ lại một phần xương máu trên các chiến trường. Ở hậu phương lớn miền Bắc, trong điều kiện vừa sản xuất, vừa đánh trả quyết liệt cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, công tác chính sách chăm sóc gia đình có người đi chiến đấu rất được coi trọng và thu được nhiều kết quả, góp phần cổ vũ tiền tuyến, ổn định hậu phương. Ông khen công tác khen thưởng đã triển khai tích cực, kịp thời, góp phần động viên phong trào thi đua lập công, tri ân những người có thành tích xuất sắc và những gia đình có công với cách mạng. Tất cả những điều đó đặt ra yêu cầu rất cao, chứng tỏ công tác chính sách hết sức lớn, rất quan trọng.

Đại tướng khẳng định, công tác chính sách đã hình thành, phát triển cùng với quá trình xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta. Suốt mấy chục năm qua, trong chiến công chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, công tác chính sách đã góp phần rất xứng đáng. Đặc biệt là, trong năm 1994, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam - Ngày hội Quốc phòng toàn dân, Cục Chính sách đã tham mưu cho Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng trình lên Đảng, Nhà nước ban hành danh hiệu vinh dự Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, kèm theo chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với các Mẹ. Đây là một chính sách có ý nghĩa chính trị xã hội to lớn, sâu sắc, được các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội trong cả nước hoan nghênh, hưởng ứng.

Kết thúc cuộc trao đổi, Đại tướng nhấn mạnh những yêu cầu, nhiệm vụ của công tác chính sách trong thời kỳ mới và trách nhiệm của Cục Chính sách - cơ quan đầu ngành về công tác chính sách trong quân đội. Ông cho rằng, trong tình hình mới, công tác chính sách cần tập trung nghiên cứu và chỉ đạo tổ chức thực hiện trên hai vấn đề lớn. Một là, cần chỉ đạo tổ chức thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chính sách đã ban hành; tập trung sức giải quyết nhanh gọn, chu đáo những tồn đọng về chính sách sau các cuộc chiến tranh - đây là vấn đề có nhiều khó khăn, phức tạp, rất bức thiết, đồng thời có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc. Hai là, cần tiếp tục nghiên cứu, đề nghị ban hành nội dung chính sách mới, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, trong điều kiện cả nước hòa bình, ổn định, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng tôi tâm đắc, coi đó là những lời huấn thị của người Anh Cả của Quân đội ta, có ý nghĩa chính trị lớn cả trước mắt và lâu dài đối với nhiệm vụ chính trị của Cục Chính sách nói riêng và ngành chính sách trong quân đội nói chung; đồng thời là những lời chỉ bảo ân tình, sâu sắc của bậc ông cha đối với các thế hệ con cháu.

Lần thứ hai:

Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam - Ngày hội Quốc phòng toàn dân, ngày 19-12-2002, Đoàn cán bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 về Hà Nội thăm, chúc mừng Đại tướng. Hôm đó là một ngày đẹp, nắng vàng, trời xanh, gió heo may thổi nhẹ, chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây lúc một giờ chiều, trên chặng đường gần một tiếng đồng hồ thì đến nhà Đại tướng.

Sau khi mọi người đã yên vị ở phòng khách, trong không khí xúc động và đầm ấm, thay mặt Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường, tôi đã phát biểu bày tỏ sự vui mừng, phấn khởi của cán bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 được đến thăm, chúc mừng Đại tướng; đồng thời báo cáo tóm tắt với Đại tướng về thành tích của Trường trong những năm qua.

Đại tướng đã nói chuyện thân mật với Đoàn cán bộ Nhà trường. Đại tướng nhắc về lịch sử của Trường: Trường Sĩ quan Lục quân 1 mà tiền thân là Trường Quân chính kháng Nhật, được thành lập ngày 15-4-1945 theo Nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ và Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đổi tên là Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Được mang tên danh tướng kiệt xuất bậc nhất của dân tộc ta là niềm vinh dự, tự hào của mọi thế hệ cán bộ, giáo viên, học viên Trường Sĩ quan Lục quân. Đây là nhà trường đầu tiên của quân đội và cũng là nhà trường đầu tiên của chế độ ta. Sự ra đời của Nhà trường đánh dấu một bước chuyển biến mới của cách mạng, kịp đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ quân sự, chính trị, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang nhân dân chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trải qua gần 60 năm, Nhà trường đã đào tạo hàng chục vạn cán bộ làm nòng cốt cho đội ngũ sĩ quan chỉ huy - tham mưu của Quân đội, góp phần rất xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Sau khi nhận định, phân tích tình hình thế giới, khu vực và trong nước, nhiệm vụ của Quân đội, Đại tướng đã ân cần căn dặn: Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, công tác giáo dục đào tạo cán bộ của Trường Sĩ quan Lục quân càng phải được nâng cao. Đặc biệt là, phải kết hợp giữa đào tạo nâng cao trình độ kỹ - chiến thuật quân sự với giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, để học viên tốt nghiệp ra trường đủ sức lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cơ sở và sẵn sàng chiến đấu cao. Trong đào tạo, Nhà trường phải coi trọng huấn luyện thực hành sát với thực tế chiến đấu và xây dựng đơn vị, nhất là phải tiếp cận với sự phát triển của khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới. Sĩ quan ra trường phải biết sử dụng vi tính, có kiến thức khoa học công nghệ, khoa học quân sự, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đoàn cán bộ chúng tôi vô cùng cảm kích về sự thông tuệ và những lời dạy bảo ân tình của Đại tướng.   

Lần thứ ba:

Đầu tháng 2 năm 2006, tôi khi đó là Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật về Chính trị và anh Trương Quang Khánh, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật đến thăm, chúc tết Đại tướng.

Đại tướng tiếp chúng tôi ở phòng khách lớn, dẫu chỉ có ba người. Sau phần chào hỏi trang trọng mà thân mật, anh Trương Quang Khánh báo cáo tóm tắt với Đại tướng về tình hình tổ chức, biên chế và kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ của Tổng cục Kỹ thuật trong thời gian qua.  

Sau khi chúng tôi dừng lời, Đại tướng đã dành phần lớn thời gian còn lại nói chuyện với chúng tôi. Với giọng trầm ấm, đầy tâm huyết, ông nói rằng: Vũ khí, trang bị kỹ thuật là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội và tiềm lực quốc phòng của đất nước. Bất cứ ở đâu và thời nào cũng vậy, có quân đội là phải có vũ khí, trang bị kỹ thuật. Có vũ khí, trang bị kỹ thuật thì tất yếu phải có công tác bảo đảm kỹ thuật. Khoa học công nghệ càng phát triển, thì vũ khí và trang bị kỹ thuật của quân đội càng hiện đại. Và vũ khí, trang bị kỹ thuật càng hiện đại, đòi hỏi công tác bảo đảm kỹ thuật càng tinh vi, càng hiện đại.

Dừng lại vài phút, nhấp một ngụm nước, nhìn chúng tôi với nụ cười đôn hậu, ông tiếp tục trao đổi. Ông khẳng định rằng, sự phát triển của công tác kỹ thuật luôn luôn gắn liền với sự phát triển trưởng thành của quân đội. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vũ khí trang bị của quân đội tuy còn ít và đơn sơ, nhưng công tác bảo đảm kỹ thuật cũng đã từng bước hình thành và đi vào hoạt động. Ngành quân giới, ngành quân khí, ngành xe máy quân sự đã ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu, được sự chi viện của các nước anh em, vũ khí, trang bị kỹ thuật của quân đội ta đã có sự phát triển, từng bước hiện đại, cả về số lượng và chất lượng.

Đại tướng căn dặn: Trong điều kiện sự phát triển của khoa học - công nghệ nói chung và sự phát triển của vũ khí trang bị, khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng, Tổng cục Kỹ thuật phải không ngừng phấn đấu làm tốt chức năng tham mưu cho Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, cũng như vai trò chỉ đạo toàn quân về công tác bảo đảm kỹ thuật. Ông nhắc, Tổng cục cần chú ý bằng nhiều biện pháp, không để xảy ra cháy nổ; phải thường xuyên bảo đảm tuyệt đối an toàn đối với con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật. Cần làm cho mọi người trong Tổng cục Kỹ thuật và ngành kỹ thuật toàn quân luôn chú trọng công tác nghiên cứu, học tập để không ngừng tiến bộ.

Chúng tôi thật sự ngạc nhiên và khâm phục về trí tuệ và sự sáng suốt của Đại tướng. Không thể tin nổi, ngày đó ông đã ngót trăm tuổi, so với mấy năm trước, sức khỏe đã yếu nhiều hơn rồi, việc đi lại đã có dấu hiệu khó khăn, tiếng nói đã chậm hơn, vậy mà ông vẫn còn thông tuệ, mẫn tiệp đến như vậy!