Sau khi ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quân Pol Pot tràn vào lãnh thổ nước ta ngày càng tăng, quy mô ngày càng lớn, có nơi vào sâu trong lãnh thổ nước ta tới 15km (Kiên Lương, Kiên Giang), làm cho tình hình biên giới Tây Nam hết sức căng thẳng. Những cuộc tiến công của quân Pol Pot không phải là hành động bột phát, mà có sự chỉ đạo từ những kẻ cầm đầu chính quyền Pol Pot-Ieng Sary, mang tính hệ thống, quy mô ngày càng lớn, hành động vô cùng tàn bạo, được chuẩn bị kỹ lưỡng. Trước đòi hỏi cấp bách của tình hình bảo vệ biên giới Tây Nam, ngày 21-9-1976, Sư đoàn 330 được thành lập trên cơ sở một số đơn vị chủ lực của Khu 8, Khu 9 cũ, lúc đó tôi được bổ nhiệm làm Phó sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Sư đoàn. Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn 330 (Quân khu 9) khẩn trương tổ chức huấn luyện, sẵn sàng cơ động tác chiến đánh bại các cuộc tiến công của địch, bảo vệ nhân dân tuyến biên giới trên các hướng An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp.
 |
Các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng Phnom Penh, trưa 7-1-1979. Ảnh: TTXVN |
Thực hiện mưu đồ đen tối, đêm 30-4-1977, quân Pol Pot sử dụng lực lượng cấp sư đoàn và lực lượng địa phương các tỉnh biên giới, bất ngờ đồng loạt tiến công xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Trên tuyến biên giới Quân khu 9, chúng sử dụng 7 tiểu đoàn của Sư đoàn 2, cùng lực lượng địa phương hai tỉnh Takeo và Kandan thuộc quân khu Tây Nam đánh vào 13 đồn công an vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) và 14/16 xã dọc tuyến biên giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương, tỉnh An Giang. Mặc dù bị tiến công bất ngờ, nhưng LLVT địa phương và các đồn công an vũ trang đã đánh trả địch quyết liệt, bảo vệ dân, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, hất chúng về bên kia biên giới.
Đêm 30-4-1977, Sư đoàn 330 được lệnh tổ chức cơ động chiến đấu trên hướng biên giới tỉnh An Giang. Sư đoàn lúc này thành lập hai sở chỉ huy, Sở chỉ huy cơ bản ở Vàm Cống, thị xã Long Xuyên; Sở chỉ huy tiền phương do tôi phụ trách, trực tiếp chỉ huy các đơn vị phía trước chiến đấu, được đặt ở chân núi Trà Sư, huyện Tịnh Biên. Từ tháng 5 đến tháng 10-1977, Sư đoàn 330 phối hợp, hiệp đồng với các đơn vị bạn và LLVT địa phương thực hiện nhiều trận đánh cấp trung đoàn, sư đoàn, phản kích tiêu diệt nhiều sinh lực địch, khôi phục những địa bàn bị quân Pol Pot lấn chiếm trên dọc tuyến biên giới. Trong tác chiến phản kích, các đơn vị của Sư đoàn đã triệt để lợi dụng địa hình, nhanh chóng cơ động, hình thành thế bao vây quân địch, kết hợp chặt chẽ giữa đánh chính diện với vu hồi vòng bọc, dồn quân địch vào khu vực ta dự kiến để tiêu diệt; làm cho quân địch mỗi lần tiến công sang lãnh thổ ta đều khiếp sợ khi gặp phải Sư đoàn 330.
Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, tàn bạo, tư tưởng dân tộc cực đoan, những kẻ cầm đầu chính quyền Pol Pot thường xuyên sử dụng lực lượng lớn áp sát biên giới, xua quân tiến hành các hoạt động vũ trang chống Việt Nam với tần suất ngày càng tăng, quy mô ngày càng lớn, cường độ ngày càng ác liệt, như: Lấn chiếm lãnh thổ, pháo kích, phá hoại mùa màng, đốt phá làng bản, trường học, tàn sát dân thường, cướp bóc tài sản... với tham vọng mở rộng lãnh thổ sang phía Việt Nam. Mặc dù ta đã hết sức kiềm chế, cố gắng giải quyết tình hình bằng giải pháp ngoại giao, nhưng đều bị chúng khước từ.
Để thoát khỏi thế bị động, ngày 26-11-1977, Quân ủy Trung ương ra “Nghị quyết số 50” về đẩy chiến đấu sang bên kia biên giới, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Từ ngày 5-12-1977 đến 6-1-1978, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng 8 sư đoàn mở đợt tác chiến phản công đẩy lui tiến công của địch, khôi phục chủ quyền lãnh thổ những nơi chúng lấn chiếm; đồng thời, tổ chức truy kích sâu vào lãnh thổ Campuchia, đánh vào những căn cứ xuất phát tiến công của địch, làm suy yếu chúng, sau đó rút về bảo vệ biên giới.
 |
Nhân dân Phnom Penh (Campuchia) tiễn các chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, lên đường trở về Tổ quốc. Ảnh: TTXVN |
Thực hiện mệnh lệnh của trên, từ ngày 15-12-1977 đến 6-1-1978, Sư đoàn 330 và lực lượng tăng cường đã phá tan những căn cứ xuất phát tiến công trong hệ thống phòng thủ của địch, diệt gọn 2 tiểu đoàn, 3 đại đội; đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 14, Sư đoàn 2 quân Pol Pot, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch; đồng thời giải thoát cho hàng vạn nhân dân Campuchia khỏi các trại tập trung của Pol Pot. Trong đợt phản công này, Sư đoàn 330 thực hiện đột phá chính diện kết hợp với vu hồi vòng bọc, dự kiến trước khu vực diệt địch, hợp vây, đón lõng, tiêu diệt gọn từng đại đội, tiểu đoàn quân Pol Pot, đạt được hiệu suất chiến đấu cao.
Sau 21 ngày đêm tiến công vào sào huyệt của địch, làm chúng suy yếu, ta rút quân về nước tổ chức phòng thủ biên giới. Trung tuần tháng 1-1978, địch cho quân bám theo tiến công vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang); đặc biệt, ngày 15-1, địch tập trung 7 tiểu đoàn của Trung đoàn 14 và Trung đoàn 15 (Sư đoàn 2) đánh chiếm khu vực Ba Chúc, núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Âm mưu của địch là chiếm giữ các điểm cao thuộc hệ thống núi Phú Cường làm bàn đạp đánh chiếm toàn bộ khu vực Thất Sơn (Bảy Núi) của An Giang. Khi địch tràn sang lãnh thổ ta, Sư đoàn 4 và LLVT địa phương tỉnh An Giang chốt giữ núi Phú Cường, nhưng không giữ được địa bàn, địch tiến sâu vào lãnh thổ của ta hơn 5km, chúng phá sập 2 chiếc cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng; đi tới đâu, lính Pol Pot xả súng bắn giết đồng bào, cả trẻ em, người già, đập phá chùa chiền... Tượng Phật nằm, một công trình văn hóa tâm linh của các phật tử người Khmer ở núi Dài cũng bị quân Pol Pot hủy hoại. Đỉnh điểm sự dã man, tàn bạo của quân Pol Pot là cuộc thảm sát hơn 3.000 đồng bào ta ở Ba Chúc (tỉnh An Giang), gây phẫn nộ cả trong nước và quốc tế, bị dư luận lên án mạnh mẽ.
Trước tình hình trên, Bộ tư lệnh Quân khu 9 hạ quyết tâm và lệnh cho Sư đoàn 330, Trung đoàn 10 (Sư đoàn 4) tổ chức phản công, đánh thật đau, tiêu diệt gọn lực lượng địch, vì nếu ta chỉ đánh xua đuổi thì quân địch sẽ không sợ. Căn cứ thực lực của Sư đoàn, địa hình, địa vật và lực lượng địch, rút kinh nghiệm qua đợt tác chiến phản công truy kích địch trước đó, Sư đoàn 330 xây dựng phương án tiến công tiêu diệt địch ở Phú Cường bằng hiệp đồng binh chủng, kết hợp giữa tiến công chính diện với vu hồi hai bên sườn, hợp vây quân địch ở cánh đồng giữa Phú Cường và Ba Chúc để tiêu diệt chúng.
Ngày 19-1-1978, các hướng tiến công của Sư đoàn 330 được hỏa lực pháo binh chi viện hiệu quả, đã tiến công kiên quyết, chiến đấu dũng cảm, hất toàn bộ quân địch xuống cánh đồng phía Tây núi Phú Cường theo đúng phương án tác chiến, tiêu diệt gần hết một sư đoàn địch, diệt gọn 5 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn khác, thu nhiều vũ khí, trang bị của địch. Trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô sư đoàn tăng cường của Sư đoàn 330 đạt hiệu suất chiến đấu cao, trừng trị đích đáng, kịp thời những hành động xâm lược vô cùng tàn bạo của quân Pol Pot-Ieng Sary.
Sau trận đánh ở núi Phú Cường, Sư đoàn 330 tổ chức xây dựng trận địa phòng thủ từ Vĩnh Xương, Tịnh Biên, tỉnh An Giang lên đến huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Sư đoàn đã phối hợp chặt chẽ với LLVT địa phương (An Giang, Đồng Tháp) và các đơn vị bạn củng cố vững chắc thế trận phòng thủ, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tạo điều kiện để cuối năm 1978, LLVT Quân khu 9 cùng các lực lượng tăng cường tổ chức một hướng phản công trong cuộc tổng phản công chiến lược và giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng. Đặc biệt, sau khi giải phóng Phnom Penh, Sư đoàn 330 làm nhiệm vụ ở tỉnh Kampong Speu, đưa các trung đội, đại đội đến các thôn, xã để giúp nhân dân xây dựng lại cơ sở vật chất, tìm những người có tố chất, năng lực để làm cán bộ, gây dựng, phát triển hệ thống chính trị ở cơ sở...
Qua đợt tác chiến phản công tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc của Sư đoàn 330, điều tâm niệm nhất đối với tôi là bản lĩnh, tính quyết đoán và chấp hành kỷ luật chiến trường của người chỉ huy, tập trung trên hai vấn đề chủ yếu sau:
Một là, trong tác chiến phải kết hợp chặt chẽ giữa bao vây, tiến công, phản công và phòng ngự; đánh địch thật đau, diệt gọn từng đơn vị quân địch khi chúng tiến công xâm lược lãnh thổ nước ta.
Mỗi loại hình tác chiến có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng liên quan mật thiết, hỗ trợ nhau để giành thắng lợi quyết định trên chiến trường. Phòng ngự thời kỳ đầu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là rất quan trọng, nhằm ngăn chặn, tiêu hao sinh lực, làm chậm tốc độ tiến công của địch, tạo thế và tạo điều kiện để chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt lớn quân xâm lược; ngược lại, phản công và tiến công lại tạo điều kiện để tổ chức phòng ngự, củng cố thế trận, tiếp tục chiến đấu. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, Sư đoàn 330 là đơn vị chủ lực cơ động của Quân khu 9, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ cơ động tiến công, phản công tiêu diệt sinh lực địch; trong tác chiến đã hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn và lực lượng các địa phương vùng biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và phòng ngự, chi viện kịp thời cho các lực lượng phòng ngự củng cố thế trận bảo vệ biên giới. Đối với quân Pol Pot, chúng rất hung hăng, tàn bạo, tàn sát dã man người dân vô tội; hơn nữa, đối tượng địch ở ngay sát biên giới, chúng thường xuyên bu bám đánh vào lãnh thổ ta. Vì vậy, khi tiến công, phản công cần kết hợp chặt chẽ với biện pháp bao vây chặt, không cho địch chạy thoát, đánh thật đau, diệt gọn từng đơn vị của địch là một yêu cầu quan trọng, nhằm làm nhụt ý chí xâm lược của kẻ thù.
Hai là, nắm chắc tình hình, giành quyền chủ động đánh địch trước khi chúng tiến công, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ với nhân dân.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, đối tượng tác chiến của ta là quân đội do tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary xây dựng trên đất nước láng giềng Campuchia anh em; chúng thi hành những chính sách và các hoạt động hết sức tàn độc đối với nhân dân, đẩy dân tộc Campuchia đứng trước họa diệt chủng, nên nhân dân Campuchia hết sức căm phẫn và dư luận quốc tế lên án mạnh mẽ. Để chuẩn bị cho âm mưu xâm lược Việt Nam, chúng dồn phần lớn lực lượng chủ lực ra sát biên giới, lập những căn cứ quân sự làm bàn đạp tiến công, thường xuyên pháo kích và xua quân lấn chiếm lãnh thổ nước ta, mặc dù bị LLVT các tỉnh biên giới Tây Nam kiên quyết ngăn chặn, đánh trả; nhưng do địa bàn tiếp giáp với ta, khi bị ta phản kích, quân Pol Pot thường bỏ chạy về những căn cứ của chúng để củng cố lực lượng, sau đó tiếp tục tiến công, làm ta bị động đối phó.
Trong đợt phản công từ trung tuần tháng 12-1977 đến đầu tháng 1-1978, do nắm chắc địch tập trung lực lượng chuẩn bị mở cuộc tiến công vào khu vực Bảy Núi (An Giang), Sư đoàn 330 cùng LLVT địa phương tỉnh An Giang đã giành quyền chủ động tiến công địch trước khi chúng xâm lược, đánh vào những căn cứ xuất phát tiến công của địch nằm sâu trong lãnh thổ Campuchia 20-30km, ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực, làm chúng suy yếu tiềm lực quân sự, đẩy chiến tranh ra xa biên giới, làm nhụt chí và hành động xâm lược của chúng. Đồng thời, việc tiến vào lãnh thổ Campuchia đã tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn tiếp cận đối tượng tác chiến được kỹ càng hơn, thấy được rõ hơn chế độ diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary vô cùng tàn bạo; khi ta truy kích, địch bỏ chạy tán loạn, ta đã giải thoát cho hàng vạn nhân dân Campuchia bị giam cầm trong các trại tập trung và họ gọi bộ đội Việt Nam là "Bộ đội nhà Phật" đã sang cứu sống nhân dân Campuchia. Từ những gì thu được qua hoạt động tác chiến phản công tiêu diệt địch, Sư đoàn 330 cùng LLVT của ta đã củng cố quyết tâm giành quyền chủ động đánh địch trước khi chúng tiến công, đồng thời sẵn sàng giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng với tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản trong sáng.
Đại tướng, Anh hùng LLVT nhân dân PHẠM VĂN TRÀ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Tư liệu Hồ sơ xem các tin, bài liên quan.