Hiện nay, thế giới, khu vực đang chứng kiến những biến chuyển nhanh chóng và phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, làm thay đổi sâu sắc tương quan lực lượng và cục diện an ninh toàn cầu. Nhiều điểm nóng xung đột kéo dài, các hành động đơn phương đi ngược lại luật pháp quốc tế tiếp tục xuất hiện ở nhiều khu vực. Các thách thức an ninh phi truyền thống, như: Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh mạng, khủng hoảng năng lượng và lương thực có xu hướng gia tăng cả về quy mô và mức độ ảnh hưởng.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tình hình diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp, khó lường. Tình hình bất ổn ở nhiều quốc gia, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn ở khu vực tác động trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trong nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; giữa nội lực và ngoại lực; giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Trong bối cảnh đó, chủ trương tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế không chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan, mà còn là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa sống còn đối với sự ổn định và phát triển của đất nước.
Trước hết, cần nhận thức sâu sắc rằng, nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân là nền tảng vững chắc của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIV của Đảng chỉ rõ phải xây dựng nền quốc phòng và an ninh toàn diện, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Điều này đòi hỏi phải củng cố tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ phục vụ quốc phòng, an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, nhất là tại các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây được coi là cách tiếp cận toàn diện, lấy dân làm gốc, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Thứ hai, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đại hội XIV của Đảng khẳng định tiếp tục xây dựng Quân đội và Công an theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Quân đội và Công an được tổ chức tinh, gọn, mạnh, hợp lý; tăng cường hiện đại hóa vũ khí trang bị, ưu tiên các lực lượng tác chiến cơ động nhanh, tác chiến đa môi trường và tác chiến điện tử, không gian mạng; phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, hiện đại, lưỡng dụng công nghệ cao; nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học và công nghệ, tư duy chiến lược và khả năng xử lý tình huống phức tạp.
Thứ ba, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, an ninh con người. Việc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn là nhiệm vụ trọng tâm. Việt Nam kiên trì giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982); đồng thời, không ngừng nâng cao năng lực quản lý biên giới, biển, đảo và an ninh mạng.
 |
| Ảnh minh họa. |
Thường xuyên coi trọng công tác phòng, chống thách thức an ninh phi truyền thống như: Dịch bệnh, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh lương thực… Quán triệt cách tiếp cận “lấy con người làm trung tâm” trong xây dựng môi trường sống an toàn, ổn định, tạo tiền đề cho phát triển bền vững.
Cùng với đó, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế - tạo dựng môi trường hòa bình, nâng cao vị thế đất nước là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Trong bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng đa dạng, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta có ý nghĩa then chốt trong việc giữ vững môi trường hòa bình, tận dụng tối đa các nguồn lực quốc tế cho phát triển đất nước. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng không chỉ là yêu cầu khách quan của tiến trình phát triển, mà còn là điều kiện tiên quyết để nâng cao thực lực tổng hợp, củng cố “thế và lực” của Việt Nam trong dài hạn.
Việc triển khai đồng bộ, sáng tạo các hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân; mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các nước láng giềng; tham gia tích cực vào các cơ chế đa phương, nhất là Liên hợp quốc, ASEAN, APEC…, góp phần định vị trí, vai trò của Việt Nam trong cấu trúc khu vực và toàn cầu đang định hình lại. Tư duy “ngoại giao cây tre”, kiên định mà linh hoạt, mềm mại mà kiên cường, giúp Việt Nam xử lý hài hòa quan hệ với các đối tác, duy trì cân bằng chiến lược, không để lệ thuộc hay bị cuốn vào cạnh tranh, đối đầu.
Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, với trọng tâm là triển khai hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mở rộng không gian phát triển, thu hút đầu tư chất lượng cao, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, đồng thời tăng cường kết nối kinh tế - thương mại - đầu tư với các nền kinh tế chủ chốt. Hội nhập quốc tế về quốc phòng và an ninh được tiến hành với phương châm “thêm bạn, bớt thù”, góp phần xây dựng lòng tin chiến lược, ngăn ngừa xung đột, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với các vấn đề liên quan đến độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trong thời kỳ mới, công tác đối ngoại phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, tạo lập “vành đai hòa bình” vững chắc xung quanh đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đây chính là một trong những nhân tố nền tảng để nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo đảm sự ổn định lâu dài và phát triển bền vững của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện hiệu quả chủ trương lớn của Đại hội XIV của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao năng lực dự báo chiến lược, chủ động xử lý các tình huống phức tạp; xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ về quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực và thế giới biến động nhanh, phức tạp, việc tăng cường năng lực dự báo chiến lược có ý nghĩa then chốt để phát hiện sớm nguy cơ, đánh giá đúng tình hình và đưa ra quyết sách kịp thời, tránh bị động, bất ngờ. Cùng với đó, cần nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng, hoàn thiện cơ chế chỉ huy, chỉ đạo nhằm chủ động xử lý tốt các tình huống cả truyền thống và phi truyền thống. Song song, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ về quốc phòng, an ninh và đối ngoại sẽ tạo hành lang pháp lý thống nhất, vững chắc, bảo đảm triển khai hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, hiện đại hóa lực lượng vũ trang, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Trong điều kiện mới, hiện đại hóa lực lượng vũ trang là nhiệm vụ chiến lược nhằm nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; ưu tiên các lực lượng tác chiến nhanh, lực lượng Phòng không - Không quân, Hải quân, Cảnh sát biển, an ninh mạng và lực lượng đặc nhiệm. Song song, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, công nghệ cao, tự chủ trong sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật chủ lực; đẩy mạnh nghiên cứu phát triển, liên kết với các đối tác uy tín, tiếp cận công nghệ tiên tiến. Qua đó, tạo dựng nền tảng vững chắc cho sức mạnh quân sự quốc gia, bảo đảm khả năng phòng vệ và răn đe trong mọi tình huống.
Ba là, tăng cường ngoại giao toàn diện và hội nhập quốc tế sâu rộng. Triển khai đồng bộ ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân; phát huy vai trò tiên phong của ngoại giao quốc phòng, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; mở rộng mạng lưới đối tác chiến lược. Củng cố quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; tham gia chủ động và có trách nhiệm tại các cơ chế đa phương, nhất là Liên hợp quốc và ASEAN. Đồng thời, thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng trên các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, khoa học và công nghệ, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc. Qua đó, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam, tận dụng tốt các nguồn lực bên ngoài cho phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bốn là, gắn kết chặt chẽ quốc phòng - an ninh - đối ngoại với phát triển kinh tế - xã hội. Đây là yêu cầu mang tính chiến lược, bảo đảm sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước. Việc kết hợp chặt chẽ ba trụ cột quốc phòng, an ninh và đối ngoại với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giúp tạo ra sức mạnh tổng hợp, vừa củng cố tiềm lực bảo vệ Tổ quốc, vừa thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo; đồng thời, đẩy mạnh thu hút đầu tư, mở rộng hợp tác quốc tế đi đôi với bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế và an ninh con người. Việc lồng ghép mục tiêu phát triển với mục tiêu bảo vệ sẽ giúp tăng cường ổn định chính trị, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế sâu rộng và nâng cao vị thế quốc gia trong giai đoạn mới.
Năm là, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. “Thế trận lòng dân” là nền tảng cốt lõi của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ vai trò quyết định trong việc củng cố sức mạnh nội sinh của đất nước. Muốn xây dựng thế trận này vững chắc, cần chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân; phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục quốc phòng, an ninh, bồi dưỡng lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Khi lòng dân thuận, ý Đảng hợp, sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, là “lá chắn mềm” nhưng bền vững, giúp đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Việc tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn là yêu cầu chiến lược, mang tính thường xuyên, lâu dài; là sự kết hợp hài hòa giữa bảo vệ và xây dựng, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ tạo nền tảng vững chắc để giữ vững hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, mở rộng không gian phát triển, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao.