Trước yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới đòi hỏi phải đổi mới tư duy, phương pháp công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch.

Trong Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam đã nêu ra sự phát triển nhận thức và lý luận về công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng. KT, GS là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự KT, GS của Đảng; giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm; kịp thời phát hiện nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc manh nha, lấy ngăn chặn, phòng ngừa là chính. 

Ảnh minh họa: tuoitre.vn

Từ Đại hội lần thứ VIII, Đảng đã chuyển trọng tâm công tác kiểm tra sang kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra. Đại hội lần thứ X đã bổ sung thêm công tác giám sát gắn liền với công tác kiểm tra. Các Đại hội lần thứ XI, XII, XIII tiếp tục có nhiều chủ trương đổi mới công tác KT, GS, kỷ luật.

Có thể thấy, công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; góp phần từng bước kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, tha hóa trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; kỷ cương trong Đảng được siết chặt hơn, phòng ngừa ngăn chặn tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, hoạt động công tác KT, GS được tăng cường, đổi mới cả về nội dung, phương pháp, chuyển từ “bị động” sang “chủ động”; tiếp tục bám sát phương châm “giám sát mở rộng”, “kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm”. Tập trung kiểm tra việc quán triệt và thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chỉ thị, quy định, kết luận, chương trình công tác của cấp trên, cấp mình; việc thực hiện các quy chế lãnh đạo của cấp ủy, vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên... Đây cũng là nhiệm kỳ mà ủy ban kiểm tra các cấp, đặc biệt là Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện khối lượng công việc rất lớn, quán triệt và thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chủ động kiểm tra dấu hiệu vi phạm, kịp thời xử lý và kiến nghị xử lý nhiều vụ việc vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, tạo niềm tin, sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Nét nổi bật nhất trong những năm qua, công tác KT, GS của Đảng có nhiều đổi mới, việc tăng thẩm quyền cho ủy ban kiểm tra các cấp được xác định trong các quy định của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, bảo đảm tính tích cực, chủ động, nâng cao chất lượng các cuộc kiểm tra. Việc phối hợp công tác KT, GS của Đảng với các ngành chức năng của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả. Nhiều nghị quyết của Đảng, luật pháp Nhà nước, các quy định, cơ chế, chính sách được ban hành tạo điều kiện thuận lợi cho công tác KT, GS, trong đó có việc xem xét xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng còn một số hạn chế. Việc KT, GS thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu quyết liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chưa được phát hiện kịp thời. Công tác giám sát, nhất là giám sát thường xuyên còn hạn chế, chưa kịp thời phát hiện, xác định được dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên nên việc ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm từ sớm, từ xa hiệu quả chưa cao, dẫn đến khi tiến hành kiểm tra, xử lý thì hậu quả để lại rất lớn. Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm. Có cán bộ kiểm tra chưa thật sự gương mẫu, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới đất nước rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Bước vào giai đoạn mới của cách mạng, công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng nói riêng cần đổi mới tư duy, nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng tổ chức đảng ngang tầm nhiệm vụ.

Trước hết, phải thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ đảng viên, đặc biệt là cấp ủy các cấp, cán bộ chủ trì về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS. Từng cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác KT, GS. Đây là hoạt động lãnh đạo của các tổ chức Đảng, là một khâu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, thông qua công tác KT, GS. Vì vậy đòi hỏi cấp ủy, ủy ban kiểm tra, cán bộ làm công tác kiểm tra phải thường xuyên nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhất là trước những vấn đề mới, chủ trương, chính sách mới để vận dụng tổ chức thực hiện tốt công tác KT, GS.

Hai là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cấp ủy có thẩm quyền cần ban hành đồng bộ các quy chế, quy định, bổ sung hoàn thiện, hướng dẫn quy trình công tác KT, GS phù hợp với thực tiễn công tác xây dựng Đảng. Mở rộng và tăng cường phân cấp, phân quyền, nâng cao tính tích cực, chủ động của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp. Công tác KT, GS phải bám sát nhiệm vụ chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và yêu cầu công tác xây dựng Đảng.

Ba là, xây dựng và thực hiện tốt quy chế, chương trình phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng có liên quan; kết hợp chặt chẽ công tác KT, GS của Đảng với công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; công tác giám sát của Đảng với giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, nhất là trong xem xét, đánh giá, quyết định, kết luận công tác KT, GS. Phát huy đầy đủ vai trò của nhân dân, của cả hệ thống chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác KT, GS, kỷ luật Đảng.

Bốn là, thực hiện tốt phương châm “giám sát mở rộng”, “kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm” trong xác định mục tiêu, phương hướng kế hoạch kiểm tra; bảo đảm tính dân chủ, khách quan trong công tác KT, GS. Giải quyết tốt các mối quan hệ giữa chủ thể kiểm tra với đối tượng kiểm tra. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần tập trung kiểm tra những nhiệm vụ trung tâm, lĩnh vực trọng điểm như quản lý kinh tế, công trình, dự án, quản lý đất đai, công tác cán bộ..., những vấn đề nổi cộm, nhạy cảm. Bám sát yêu cầu xây dựng Đảng, thông qua nhiều kênh, nhiều thông tin, lắng nghe ý kiến, dư luận của cán bộ, nhân dân, tích cực, chủ động trong kiểm tra dấu hiệu vi phạm, góp phần phòng ngừa và ngăn chặn tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước. Thực hiện tốt công tác KT, GS vai trò gương mẫu nêu gương của cấp ủy, cán bộ chủ trì, nhất là phẩm chất đạo đức, lối sống, các mối quan hệ gia đình, xã hội.

Năm là, thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố ủy ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra các cấp thực sự có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có trình độ, nghiệp vụ, chuyên môn giỏi, nắm chắc nguyên tắc công tác KT, GS, kỷ luật; am hiểu sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tầm nhìn xa trông rộng, có năng lực dự báo, đề ra được những yêu cầu, quy định chặt chẽ, khoa học, dễ thực hiện. Tăng cường phối hợp thực hiện chuyển đổi số trong công tác KT, GS. Làm tốt công tác thu thập dữ liệu, thông tin tổ chức đảng và đảng viên. Ứng dụng phần mềm trong kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng, quản lý đảng viên thông qua sổ tay đảng viên điện tử. Rút ngắn thời gian kiểm tra, tăng tần suất các cuộc KT, GS, bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong nhận xét, đánh giá, kết luận các cuộc KT, GS, kỷ luật của Đảng.