Việt Nam đã được nhiều nước biết đến như là một trong những quốc gia có sức hấp dẫn nhất, thu hút nhiều nhà đầu tư. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, cả nước có khoảng 370 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép, gần 200 lượt dự án được tăng vốn. Tổng số vốn cấp mới và tăng thêm từ đầu năm đến nay đạt khoảng 3,5 tỷ USD. Thế nhưng, ít người biết rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cũngđã thành công trong việc đầu tư ở xứ người.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đây thực sự là tín hiệu vui, tạo hành lang pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp...
Kết quả bước đầu đáng khích lệ
Đầu tư ra nước ngoài được coi là hướng đi mới, mạnh dạn của không ít doanh nghiệp Việt Nam. Nếu như giai đoạn từ năm 1989 đến 1999, mỗi năm chỉ có một vài doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài với số vốn đầu tư ít ỏi thì từ năm 2000 đến nay, số lượng các dự án đầu tư ra nước ngoài đã tăng gấp 2,5 lần và số vốn đầu tư tăng gấp chín lần so với 5 năm trước đó.
Đại tá Phạm Viết Thích, Tổng giám đốc Tổng công ty Bay dịch vụ Việt Nam (Bộ Quốc phòng), mới đây đã phấn khởi thông báo: Từ đầu năm 2006 đến nay, bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, lần đầu tiên tổ bay của Tổng công ty Bay dịch vụ Việt Nam (SFC.VN) đã “xuất khẩu trọn gói” dịch vụ dầu khí sang Ma-lai-xi-a, mang lại hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng làm ăn mới.
Cuối năm 2005, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc đã ký Giấy phép cho phép Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Điện Việt - Lào đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện Xekaman 3 với công suất 250MW theo hình thức đầu tư Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao (BOT) tại CHDCND Lào. Dự án nhà máy thủy điện Xekaman 3 với tổng mức vốn đầu tư là 273 triệu USD, bao gồm xây dựng nhà máy thủy điện với công suất 250MW và hệ thống đường dây tải điện 220KV dài 33km nối từ nhà máy về hòa vào lưới điện của Việt Nam tại tỉnh Quảng Nam. Nhà máy đã được khởi công vào tháng 3 năm 2006. Đây là dự án đầu tư ra nước ngoài lớn nhất từ trước đến nay.
Mới đây, Công ty đầu tư và phát triển dầu khí (PIDC), đơn vị thành viên của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam), đã tuyên bố thành công trong 2 dự án thăm dò dầu khí tại An-giê-ri và Ma-lai-xi-a. Tại An-giê-ri, PIDC điều hành dự án thăm dò, thẩm lượng và khai thác dầu khí lô 433a và 416b tại sa mạc Xa-ha-ra từ giữa năm 2003 với 40% cổ phần tham gia. Các đối tác khác trong hợp đồng này là PTTE Algeria, 35%, và Công ty dầu khí quốc gia An-giê-ri Sonatrach, 25%. Cuối năm 2005, dự án đã cơ bản hoàn thành công việc cam kết của Giai đoạn thăm dò thứ nhất. Tháng 12-2005, tại giếng khoan thẩm lượng BRS được thực hiện ở độ sâu 3.930m, thử vỉa tại tầng chứa Ordovician Hamra đã cho lưu lượng 5.120 thùng dầu/ngày và 4,8 triệu bộ khối khí/ngày. Phó giám đốc Công ty PIDC kiêm Giám đốc chi nhánh PIDC tại An-giê-ri Nguyễn Quốc Thập cho biết, việc phát hiện dầu ở lô hợp đồng của công ty tại An-giê-ri khẳng định thành công của dự án cũng như tiềm năng và triển vọng dầu thu được ở lô này, đồng thời cho phép dự báo quy mô đầu tư thăm dò thẩm lượng các cấu tạo còn lại trong lô.
Trong thời gian tới, PIDC sẽ cùng các đối tác triển khai một khối lượng lớn công việc thẩm lượng các phát hiện đã có và thăm dò mở rộng toàn bộ lô hợp đồng nhằm đạt mục tiêu khai thác dầu vào năm 2009.
Tại Ma-lai-xi-a, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa 3 công ty dầu khí quốc gia của Việt Nam, Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a, PIDC tham gia điều hành chung dự án thăm dò dầu khí tại lô SK305 ngoài khơi đảo Sa-ra-oác với cổ phần tham gia 30%. Hiện PIDC và tổ hợp nhà thầu đang tiếp tục đánh giá nhằm xác định tiềm năng của lô hợp đồng và xây dựng chương trình thăm dò, thẩm lượng tiếp theo
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch – Đầu tư), từ đầu năm đến nay, cả nước có 8 dự án được cấp phép đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký hơn 43 triệu USD. Trong đó, có các dự án có vốn đầu tư tương đối lớn như dự án thăm dò, khai thác dầu khí tại Xin-ga-po có tổng vốn đăng ký gần 22 triệu USD. Dự án trồng cao su tại Lào có vốn 12,5 triệu USD. Dự án xây dựng bệnh viện tại Cam-pu-chia có vốn đầu tư 10,5 triệu USD.
Như vậy, tính đến thời điểm này, cả nước có 158 dự án được cấp phép đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký hơn 670 triệu USD. Những con số này khẳng định sự mạnh dạn và thành công bước đầu của các doanh nghiệp nước ta trong việc vươn ra các thị trường nước ngoài, đầu tư và tìm kiếm lợi nhuận.
Hướng đi đúng nhưng... lúng túng
Tuy nhiên, việc đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhiều khi còn lúng túng. Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài không phải đã hoàn toàn "thuận buồm xuôi gió". Đối với một số doanh nghiệp, bên cạnh những khó khăn trong quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh tại nước bạn, còn gặp phải những vướng mắc, cản trở ở ngay trong nước. Đơn cử như quy trình thẩm định cấp phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài còn chậm, thủ tục rườm rà, doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian mới xin được giấy phép đầu tư, vì thế một số trường hợp bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Cơ chế vay ngoại tệ, thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài, chuyển lợi nhuận từ nước ngoài về Việt Nam... vẫn chưa được quy định cụ thể. Đây cũng là những nguyên nhân làm cho phần lớn các doanh nghiệp trong nước mới chỉ dừng lại ở mức đầu tư thí điểm hoặc thăm dò, chưa mạnh dạn mở rộng đầu tư, dẫn đến tình trạng đầu tư cầm chừng và vì vậy một số dự án đầu tư ra nước ngoài chưa đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Điều đáng ngại là hiện nay vẫn còn một bộ phận nhỏ cán bộ quản lý Nhà nước cho rằng các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài sẽ khiến đầu tư trong nước giảm sút, ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế và mục tiêu giải quyết việc làm.
Cần cơ quan chuyên môn hỗ trợ doanh nghiệp
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đây là một trong những nghị định hướng dẫn quan trọng của Luật Đầu tư 2005 được ban hành sớm nhất. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, Nghị định 78 đã mở con đường lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Theo Nghị định, các nhà đầu tư Việt Nam (gồm công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá và hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam) đều có thể được đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nếu đáp ứng được 4 điều kiện. Đó là: có dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước Việt Nam; tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn đối với trường hợp sử dụng vốn nhà nước để đầu tư; được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Hướng dẫn chi tiết tại Nghị định ghi rõ, trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về nước được áp dụng như mức thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với dự án đầu tư trong nước trong cùng lĩnh vực đầu tư. Trường hợp nước tiếp nhận đầu tư là quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam thì nghĩa vụ về thuế của nhà đầu tư đối với Nhà nước Việt Nam thực hiện theo quy định của Hiệp định đó và nếu nước tiếp nhận đầu tư là quốc gia hoặc thuộc vùng lãnh thổ chưa ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam thì khoản thuế thu nhập doanh nghiệp đã được nộp ở nước tiếp nhận đầu tư sẽ được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam. Việc miễn thuế xuất khẩu đối với tài sản mang ra nước ngoài để triển khai dự án đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Tuy nhiên, theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế, Nghị định số 78 khá thông thoáng cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, nhưng quá trình thực thi Nghị định, chắc chắn vẫn còn vướng mắc bởi cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên môn hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới, rất cần sự ra đời của một cơ quan hoặc tổ chức đầu mối giúp các doanh nghiệp Việt Nam “bơi” trên thị trường thế giới trong lĩnh vực đầu tư. Các cơ quan chức năng của Nhà nước cần tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế và khu vực.