Để sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai vào miền Bắc nước ta, lực lượng và thế trận phòng không của Thủ đô đã được xây dựng, phát triển phù hợp với điều kiện mới. Từ giữa tháng 4-1972, Bộ tư lệnh (BTL) Thủ đô đã tham mưu với Thường vụ Thành ủy và Ủy ban Hành chính TP Hà Nội kế hoạch sơ tán cấp tốc khoảng 300.000 người ra khỏi nội thành; củng cố hội đồng phòng không nhân dân các cấp theo yêu cầu mới. Tháng 6-1972, BTL Thủ đô thành lập 8 đại đội tự vệ tập trung thoát ly sản xuất. Trong nội thành, mỗi khu phố tổ chức một đại đội pháo cao xạ 100mm gồm 5 khẩu đội với quân số 50 người để tăng cường hỏa lực bắn máy bay địch. Mỗi cơ quan, xí nghiệp có khoảng 70 tự vệ được trang bị súng bộ binh làm nhiệm vụ chiến đấu tại chỗ và là lực lượng xung kích trong khắc phục hậu quả do địch gây ra.
Ở ngoại thành, mỗi huyện tổ chức một đại đội bộ binh tập trung, trang bị đủ súng, đạn, làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu; hệ thống trận địa bắn máy bay bay thấp của dân quân tự vệ được tổ chức thành 62 trận địa trực chiến, bố trí sát mục tiêu bảo vệ. Lực lượng dân quân ở các thôn, xã đều chia thành 3 lực lượng, gồm: Lực lượng chiến đấu cơ động được trang bị súng máy cao xạ; lực lượng chiến đấu tại chỗ được trang bị súng bộ binh và lực lượng phục vụ chiến đấu. Sau khi ổn định biên chế, tổ chức và tập trung huấn luyện cấp tốc, từ ngày 25-8-1972, BTL Thủ đô đưa 4 đại đội pháo 100mm của các khu phố nội thành tham gia trực chiến.
 |
Quân và dân Thủ đô trong chiến dịch phòng không bảo vệ Hà Nội, tháng 12-1972. Ảnh tư liệu |
Do tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô, LLVT tỉnh Hà Tây được bổ sung 24 khẩu pháo 37mm, 105 súng máy phòng không 14,5mm và 12,7mm, 99 đại liên, hơn 1.000 súng trường các loại, tập trung cho các cụm chiến đấu trọng điểm: Ba Vì, Hòa Lạc, Xuân Mai, Miếu Môn, Cầu Giẽ. Trên toàn tỉnh, hình thành 267 trận địa của dân quân tự vệ bố trí đón đánh máy bay địch vào đánh phá Hà Nội từ các hướng Đông Nam, Tây Bắc...
Có thể nói, trước khi bước vào trận quyết chiến chiến lược với giặc Mỹ trên bầu trời Thủ đô Hà Nội cuối tháng 12-1972, thế trận của LLVT Thủ đô đã được xây dựng rộng khắp, phối hợp chặt chẽ cùng thế trận của Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) tạo thành thế trận liên hoàn, hiểm hóc, sẵn sàng tiêu diệt máy bay địch.
Tối 18-12-1972, chiến dịch phòng không của quân và dân ta chống lại cuộc tập kích chiến lược đường không của đế quốc Mỹ bắt đầu. Dân quân tự vệ Thủ đô tham gia chiến dịch cùng với thế trận của lực lượng phòng không quốc gia có 4 đại đội pháo cao xạ 100mm (20 khẩu), 192 trận địa với 721 khẩu súng máy phòng không 14,5mm, 12,7mm và hơn 40.000 dân quân tự vệ được trang bị súng trường, tiểu liên, súng cối sẵn sàng cơ động đánh địch đổ bộ đường không, truy bắt giặc lái.
Với tinh thần chiến đấu quả cảm, dưới sự chỉ huy thống nhất, tập trung từ Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp từ BTL Quân chủng PK-KQ, các đơn vị PK-KQ, các đơn vị trực chiến của dân quân tự vệ đã chiến đấu mưu trí, kiên cường, liên tiếp lập công. Đối phó với thủ đoạn dùng máy bay F-111 hoạt động ở độ cao thấp và rất thấp, liên tục đột nhập vùng trời Hà Nội đánh phá các mục tiêu, gây căng thẳng thường xuyên cho nhân dân ta, BTL Thủ đô đã điều chỉnh lực lượng hợp lý và bố trí thế trận hiểm hóc, nhanh chóng tổ chức và trực tiếp chỉ huy lực lượng tự vệ có nhiệm vụ bắn máy bay bay thấp, bảo vệ nhà máy và các mục tiêu quan trọng. Từ ngày 25-12-1972, để đối phó với âm mưu, thủ đoạn mới của không quân Mỹ và rút kinh nghiệm chiến đấu, BTL Thủ đô tổ chức lại lực lượng với 23 trận địa tập trung, bố trí thành từng cụm phục kích đón lõng trên các đường bay của địch, 4 đại đội pháo 100mm được bổ sung thêm đạn... Nhờ đó, hiệu quả chiến đấu của quân và dân Thủ đô ngày càng được nâng cao.
Trong quá trình chiến đấu, các đồng chí lãnh đạo TP Hà Nội và BTL Thủ đô đã xuống tận các vùng bị địch đánh phá, tới tận các trận địa kiểm tra, giúp đỡ, động viên bộ đội chủ lực, dân quân tự vệ và nhân dân chiến đấu, khắc phục hậu quả do bom đạn địch gây ra. Các đội công binh địa phương phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực phát hiện, rà phá bom chưa nổ, cứu đổ, cứu sập, giải phóng các trục đường giao thông, khôi phục đường dây thông tin... Để tạo điều kiện cho không quân xuất kích kịp thời đánh máy bay B-52, bộ đội và dân quân Hà Nội đã gấp rút sửa chữa các sân bay bị hư hỏng nặng do địch đánh phá. Hai huyện Đa Phúc và Kim Anh đã huy động nhân dân với lực lượng nòng cốt là dân quân đóng góp hàng trăm nghìn ngày công đào đắp, sửa chữa, ngụy trang trận địa, san lấp hố bom, tạo điều kiện cho máy bay ta cất cánh, đánh địch.
Cùng với đó, dân quân tự vệ ở các địa bàn tổ chức các tổ cứu thương, vận tải, cấp dưỡng để phục vụ bộ đội tên lửa, cao xạ, radar. Tự vệ các công ty cầu đường bám trụ các trục đường thu dọn chướng ngại vật, bom nổ chậm, giải phóng mặt đường cho xe chạy. Nhân viên bưu điện ngày đêm thường trực bên đài, bên máy, bình tĩnh khắc phục sự cố trong bom đạn, bảo đảm mạch máu thông tin liên lạc. Cán bộ, nhân viên y tế các trạm xá, bệnh viện tận tụy cứu chữa hàng nghìn thương binh, người bị nạn suốt ngày đêm.
Trong 12 ngày đêm của chiến dịch, LLVT Thủ đô đã hiệp đồng chặt chẽ, kiên cường bám trận địa, tổ chức chiến đấu rộng khắp, linh hoạt, tạo lưới lửa phòng không tầm thấp dày đặc, chi viện, phối hợp cùng các đơn vị PK-KQ tiêu diệt máy bay địch ngay trên bầu trời Hà Nội, góp phần làm nên Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” lẫy lừng, đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trung tướng NGUYỄN QUỐC DUYỆT, Tư lệnh Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội