Thanh Cao là một xã thuần nông, nằm ở phía bắc huyện Thanh Oai (Hà Tây). Trước Cách mạng Tháng Tám và chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, xã Thanh Cao đã từng là địa bàn hoạt động bí mật của các cán bộ Trung ương, tỉnh, huyện. Truyền thống cách mạng được quân và dân Thanh Cao phát huy trong những năm kháng chiến và trong công cuộc đổi mới...
Tham gia khởi nghĩa và kháng chiến
Đầu năm 1941, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Đông và Xứ ủy Bắc kỳ rất quan tâm đến khu vực miền trung Thanh Oai để xây dựng cơ sở cách mạng. Ở đây có một xưởng làm pháo có tới 500 công nhân, chủ yếu là người xã Thanh Cao. Ông Nguyễn Duy Trình là người xóm Chợ, thôn Bình Đà, được chủ giao cho quản lý xưởng pháo. Tỉnh ủy và Xứ ủy Bắc kỳ cử đồng chí Hùng Hiển làm thư ký và giác ngộ cách mạng cho ông Trình và ông Lã Văn Viện (em vợ ông Trình, người thôn Ninh Dương).
Hai anh em ông Trình và Viện tích cực hoạt động và tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho anh em công nhân ở xưởng pháo. Một tổ chức Cứu quốc gồm hơn 10 thanh niên tích cực, đã ra đời ở xóm chợ Bình Đà và thôn Ninh Dương. Ban ngày, họ làm việc tại xưởng pháo, ban đêm đi rải truyền đơn, cắm cờ đỏ búa liềm lên những cây to khu vực Thượng Thanh, Thanh Thần và suốt dọc Thanh Mai, Kim Bài, Chuông… Có lần lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên cây gạo to ở đầu làng Mai, khiến quân Pháp vô cùng tức tối.
Một năm sau, ông Nguyễn Duy Trình được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông là đảng viên đầu tiên của khu vực miền trung Thanh Oai hồi ấy. Chi bộ Nhà Pháo Bình Đà được thành lập, lãnh đạo anh em công nhân đấu tranh hợp pháp với yêu cầu chính đáng về quyền lợi kinh tế. Giữa năm 1942, tại nhà ông Lã Văn Viện, Xứ ủy Bắc kỳ và Tỉnh ủy Hà Đông đã tổ chức một hội nghị quan trọng: Bàn định việc chống càn và tăng cường xây dựng những đốm lửa cách mạng ở miền trung Thanh Oai.
Ông Dương Văn Khái là người thôn Cao Mật Hạ, là một trong những “đốm lửa cách mạng” đó. Ông Khái đã vận động, giác ngộ cách mạng cho một số thanh niên tích cực thôn Ninh Dương, thành lập một tổ Cứu Quốc tại thôn với tên gọi “Nhóm tương thân, tương ái”. Nhà ông lang Yến ở đầu thôn được xây dựng là nơi liên lạc của Tỉnh ủy và Xứ ủy Bắc kỳ với cơ sở cách mạng ATK ở Trầm Lộng (Ứng Hòa).
Vào một chiều muộn cuối tháng 12 năm 1942, đồng chí Hoàng Quốc Việt về họp với Ban lãnh đạo Tỉnh ủy Hà Đông tại nhà ông Trình. Cuộc họp vừa bắt đầu thì mật thám ập vào, bắt ông Trình. Anh Côn (con trai ông Trình) đã dũng cảm, bí mật đưa đồng chí Hoàng Quốc Việt và các đồng chí khác vượt vòng vây về nơi an toàn. Đêm hôm đó, ông Lã Văn Viện bị địch bắt, nhưng cơ sở cách mạng vẫn tuyệt đối bí mật.
Tháng 7 năm 1945, trong khí thế cách mạng sôi động, các tổ chức Cứu Quốc ở Cao Mật Hạ và Thanh Thần tích cực chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ lệnh Tổng khởi nghĩa. Tổ chức thanh niên Cứu Quốc ở thôn Cao Mật Hạ được tổ chức thành Đội tự vệ Cứu Quốc, tích cực làm công tác địch vận.
Lệnh Tổng khởi nghĩa đến, các tổ chức: Phụ nữ, thanh thiếu niên Cứu Quốc tích cực may cờ đỏ sao vàng, chuẩn bị vũ khí, giáo mác, mã tấu để giành chính quyền. Chiều 20 tháng 8, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Mạnh Hoàng, cán bộ Mặt trận Việt Minh, tự vệ của các nơi chia thành hai ngả kéo về phủ Thanh Oai. Lực lượng tự vệ các thôn Cao Mật, Thanh Thần, Thượng Thanh của xã Thanh Cao cùng hòa nhập đoàn quân tiến về huyện lỵ giành chính quyền.
Toàn quốc kháng chiến, những ngôi đình làng Ninh Dương, Thanh Thần và Cao Mật bị nhân dân tiêu hủy, không cho địch có chỗ trú chân, đóng bốt. Nhân dân tích cực mua công trái ủng hộ kháng chiến. Đình Cao Mật Thượng được bố trí là nơi ở và làm việc của cụ Huỳnh Thúc Kháng-Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa và cán bộ cơ quan Trung ương. Đình Thượng Thanh trở thành xưởng sản xuất vũ khí của một đơn vị Công binh thuộc Bộ Quốc phòng. Gia đình các ông Lê Gia Cược, Nguyễn Hữu Tuyển là nơi nuôi giấu Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố và cán bộ cơ quan công an tỉnh Hà Đông, Hà Nội hàng tháng trời, trước khi rút lên chiến khu.
Cuối tháng 3-1947, quân Pháp mở một cuộc hành quân càn quét lớn bằng xe cơ giới theo quốc lộ 6, tiến về Mai Lĩnh, đi dọc đê sông Đáy đánh vào Thanh Cao và một số xã lân cận. Ta đã kịp chuẩn bị, đưa nhân dân tản cư sang bên kia sông Đáy, thực hiện vườn không nhà trống. Lực lượng du kích rút xuống hầm bí mật để bảo toàn lực lượng nên không thiệt hại nhiều.
Giữa năm 1948, địch lập thêm hai bốt Cao Bộ và bốt Rùa nhằm uy hiếp phía đông và tây huyện Liên Nam. Các làng phía bắc xã Thanh Mai bị địch uy hiếp nặng nề. Làng Mai nổi lên là làng kháng chiến kiên cường, tạo niềm tin cho nhân dân những thôn khác quyết tâm kháng chiến. Nhân dân tích cực đào nhiều hầm bí mật, dài từ 8 đến 10 mét thông nhau để nuôi giấu cán bộ và du kích. Những nữ du kích dũng cảm như chị Lê Thị Bớt (thôn Thanh Thần) và Nguyễn Thị Sĩ (thôn Thượng Thanh) đã phối hợp với lực lượng công an huyện Liên Nam, tỉnh Hà Đông trở thành chiến sĩ điệp viên, bám địch, thu thập nhiều tin tức có giá trị báo về cho tổ chức.
Trong một lần đi công tác bị lộ, hai chị bị địch bắt, tra tấn dã man, nhưng vẫn giữ vững khí tiết cách mạng, không khai nửa lời. Cuối cùng, chúng mang hai chị đi thủ tiêu trên cánh đồng Thạch Bích. Máu của các chị đổ xuống đã thấm sâu vào lòng đất, góp phần tạc vào lòng những người dân, những du kích lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm chiến đấu trả thù.
Những năm 1950-1953 và đầu năm 1954, Thanh Cao là vùng tạm chiếm, địch liên tục càn quét, nhiều cán bộ, đảng viên bị địch bắt, thủ tiêu, song cơ sở cách mạng vẫn được giữ vững.
Suốt chín năm ròng, quân Pháp đã tổ chức hơn 200 trận càn quét vào các thôn xóm Thanh Cao, lực lượng vũ trang xã đã dũng cảm chống càn 6 trận, theo lối du kích nhanh gọn, hiệu quả, bí mật, bắt sống 5 tên Quốc dân Đảng phản loạn, tiêu diệt 7 tên địch, bắn bị thương 12 tên. Cũng chín năm trường kỳ kháng chiến ấy, Thanh Cao có 28 thanh niên xung phong vào bộ đội chủ lực; 17 người đã anh dũng hy sinh trên khắp các chiến trường. Hàng trăm thanh niên tham gia vào lực lượng dân quân du kích, chiến đấu ngay trong lòng địch, 18 đồng chí đã anh dũng hy sinh, tên tuổi của các đồng chí ấy mãi được lưu danh trong bảng vàng truyền thống. 20 huân chương và 15 huy chương kháng chiến là phần thưởng lớn lao mà Đảng, Nhà nước đã trao tặng cho Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Thanh Cao. Xã đội trưởng Nguyễn Bá Thất hy sinh năm 1949, đến 2005 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Dân quân tay súng, tay cày
Những năm chống Mỹ cứu nước, Thanh Cao có 650 thanh niên tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu. Ở hậu phương, những nam, nữ dân quân “Chắc tay súng, vững tay cày” trên cánh đồng năm tấn vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu.
Nhiệm vụ của lực lượng dân quân xã có phần nặng nề hơn một số địa phương khác, bởi Quân y viện 103 về đây sơ tán. Những đồng chí thương binh nặng từ khắp các chiến trường Nam, Bắc được đưa về điều trị. Nhà dân trở thành giường bệnh cho thương binh.
Mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc. Nước nhà thống nhất, Đảng bộ và nhân dân xã Thanh Cao vui mừng chào đón những người con anh dũng trở về. 13 người con ưu tú đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ, diệt xe tăng, trong đó có Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Tiến Lải - nay đang là Phó chỉ huy trưởng về quân sự Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây. Năm 1981, Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân xã đã vinh dự được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng ba và được đón bác Phạm Văn Đồng về thăm.
Một bước ngoặt mới
Hai mươi năm trong thời kỳ đổi mới, bộ mặt nông thôn xã Thanh Cao đã khác xưa rất nhiều. Những bước đi ban đầu của xã vận động trong nền kinh tế thị trường không khỏi có những lúc thăng trầm, gian khó. Song Đảng bộ và nhân dân xã đã từng bước vượt lên những thách thức, những khó khăn, giành thắng lợi.
Nhớ hồi những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ trước, người dân Thanh Cao giàu lên rất nhanh từ nghề làm pháo. Giàu nhanh, song nghề pháo gây nhiều tai nạn thương tâm, ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội. Cuối năm 1994, khi có Chỉ thị 406 của Thủ tướng Chính phủ về việc cấm sản xuất pháo, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng các tổ chức đoàn thể đã lãnh đạo, vận động, thuyết phục nhân dân toàn xã chấp hành nghiêm Chỉ thị. Bỏ nghề pháo, tập trung vào sản xuất nông nghiệp- đó là quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Thanh Cao.
Hơn ai hết, những cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang xã là những người đi đầu thực hiện ngay trên cánh đồng, ruộng lúa nhà mình, làm gương cho bà con noi theo. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đầu tư vốn. Các giống lúa mới cho năng suất cao được đưa vào cấy thử nghiệm và cấy đại trà. Các biện pháp kỹ thuật, thâm canh tăng vụ được áp dụng, nhằm khai thác triệt để tiềm năng đất nông nghiệp… Không phụ công người, lúa được mùa bội thu, năng suất bình quân đạt hơn 10 tấn/ha. Chăn nuôi cũng theo đó mà phát triển: Từng đàn lợn, bò, hàng trăm mẫu ao nuôi cá giống, rồi gia cầm, thủy cầm có tới hàng chục nghìn con. Năm ấy, tổng trị giá chăn nuôi đạt 4 tỷ đồng. Một loạt nghề truyền thống: Dệt, thêu, làm nón lá, mộc, nề… được khôi phục.
Có thu nhập, bà con yên tâm làm ăn, ổn định cuộc sống. 20ha đất bãi vùng ven sông Đáy được san phẳng trồng hàng nghìn cây cam, bưởi, mang lại giá trị kinh tế cao. Đầm Thượng Thanh được đấu thầu, thành nơi sản xuất cá giống cung cấp cho cả khu vực…
Những năm qua, nhờ kinh tế phát triển, xã đã xây dựng thêm một trường trung học cơ sở với 10 phòng học khang trang trị giá 700 triệu đồng, xây mới 2 nhà mẫu giáo, củng cố và xây thêm 4 phòng học cho trường cấp I trị giá 160 triệu đồng. Hàng nghìn mét đường liên thôn, liên xã được bê tông hóa và lát gạch sạch sẽ, khang trang. Toàn xã đã hoàn thành xong chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến nay, xã có hơn 150 người có trình độ đại học.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXI đề ra những mục tiêu phấn đấu đến năm 2010: Tổng thu nhập xã hội đạt 81 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10%/năm; lấy phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ làm mũi chủ yếu, chiếm tỷ trọng 65%, nông nghiệp chiếm 35%; sản lượng nông nghiệp đạt 2.866,5 tấn; giảm hộ nghèo xuống còn 1% theo tiêu chí mới; xây dựng chính quyền vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, duy trì và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.
Sản phẩm nghề phụ của xã không chỉ phục vụ thị trường nội địa mà còn theo đường tiểu ngạch xuất khẩu sang các nước Á, Âu. Trong tương lai không xa, Thanh Cao sẽ là một vùng nông thôn hiện đại, văn minh nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, ấm tình làng quê.
NGUYỄN THỊ TÂM BẮC