QĐND - Tôi bàng hoàng nhìn vầng dương đỏ lựng vượt lên từ phía đường chân trời. Những tia sáng huy hoàng vạch lên thân núi một đường thẳng tắp, rồi từ từ nhích dần xuống. Ánh nắng ấm áp, êm ả xua tan giá buốt của một đêm nhiệt độ chạm ngưỡng không độ. Ánh nắng dọi vào đầu vào mặt tôi. Tôi quay lưng nhìn bóng tôi đang vạch một đường dài kéo thẳng về hướng đại ngàn. Yêu Tổ quốc đến quặn lòng.

“Anh…”. Tôi bừng tỉnh. Mã A Chớ nhìn tôi nhoẻn cười. Tôi vỗ đôi vai tròn lẳn của Chớ: “Đêm qua ngủ ngon không em?”. “Ngon ạ”. “Ngủ ở đâu, có tăng bạt gì không?”. “Em túm mấy cành trúc lại rồi buộc võng nằm, có tán cây che rồi anh ạ”.

Tôi nhìn Chớ ái ngại. Có sức trai đấy nhưng ngủ rừng như vậy quả là không thể tưởng tượng được.

Đêm qua, khi đoàn lữ hành leo núi cắm cờ trên đỉnh Phan Xi Păng đến điểm cao 2.800, các pót-tơ (người khuân vác) người Mông đã chuẩn bị lán trại đầy đủ. Sau một ngày hành quân rã rượi tôi chỉ muốn nằm lăn ra ngủ. Túp lều dã ngoại chỉ rộng chừng 2 mét vuông, bố trí cho 3 người ngủ, mỗi người lại được trang bị thêm một chiếc túi ngủ bằng bông tổng hợp dày cồm cộp. Tôi nằm bên sườn lán, mỗi lần cựa mình lại chạm vào vách lán lạnh buốt. Chân co ro cũng vì sợ chạm vào vách lán. Nằm mãi không ngủ được, tôi ngó nhìn đồng hồ, mới có 8 giờ tối. Ghé mắt nhìn qua cửa bạt, sương đã phủ trắng rừng thành một khối dày nặng chịch. Nhiều đám lửa được anh em pót-tơ đốt lên sưởi ấm. Các du khách cũng chen chân vào cạnh đám lửa, ngồi xo vai như những chú chim sẻ non trong mưa. Tiếng củi nứa nổ đôm đốp, tiếng lửa reo lẫn tiếng người âm u, rì rầm. Đoàn lữ hành đông đến 200 người đang say sưa trong đêm lửa trại. Mấy anh chàng pót-tơ đứng ngơ ngác nhìn.

Pót-tơ mang túi ngủ, lều trại phục vụ du khách.

Các pót-tơ đến giờ mới được ăn tối. Họ ăn đứng, vội vàng, đơn giản. Tôi nhòm vào mâm cơm, vẻn vẹn vài miếng thịt mỡ rang cháy, nước canh lõng bõng, nhưng trông cũng ngon miệng lắm. Tôi xớn xác tìm, chợt thấy A Chớ đứng lừng lững bên đống lửa, gương mặt vuông với những nét mạnh khỏe rất nam tính mờ tỏ bên ánh lửa bập bùng. Chớ cười rạng rỡ. Tôi cũng chỉ mới quen Chớ trong ngày hôm đó. Hai anh em có nhiều điểm chung vì Chớ đã qua bộ đội. Chớ nguyên là lính của Đoàn C8. Vợ Chớ làm ở ban phụ nữ xã Tả Phìn. Hai vợ chồng có con được hơn một tuổi. Chớ giờ làm nhiệm vụ phụ trách anh em pót-tơ của Công ty lữ hành Green Sa Pa. Có sức trai cùng với những năm tháng rèn luyện trong quân ngũ nên Chớ tổ chức nhóm pót-tơ gọn gàng lắm. Họ mang được cả hai túp lều dã chiến giống của quân đội lên cắm trại tại điểm cao 2.800.

Tôi bám theo đoàn pót-tơ này trong suốt hành trình từ Trạm Tôn lên đây. Mỗi anh mang vác khoảng 30 cân hàng nhưng họ đi rất nhanh, một phần vì thời gian và quãng đường nghỉ được chia rất hợp lý. Phải nói thêm rằng việc mang vác nặng và leo những con dốc dài hàng cây số là một “cực hình” với du khách. Ngay bản thân tôi dù đã làm giảm tối đa trọng lượng của quân tư trang xuống còn khoảng 5 cân mà nhiều lúc muốn “vứt quách đi cho rảnh nợ”. Dù biết mang vác nặng leo đèo dốc thành quen nhưng chúng tôi-những du khách phải phục lăn lóc trước sức mạnh của pót-tơ.

“Đêm nay em ngủ ở đâu?”. Tôi ái ngại nhìn các lán trại đã kín người. A Chớ nói với tôi là sẽ ngủ bên đống lửa rồi lấy một tấm bạt vốn dùng để trải cho du khách ngồi để trùm lên tránh sương, gió, rồi 2 người chui vào một cái túi ngủ, vì rằng pót-tơ đã quá tải, không thể mang thêm cho đủ mỗi người một cái. Tôi bấm ngón chân xuống đất, qua lần đế giày kếp vẫn cảm nhận thấy sự buốt lạnh của nền rừng. Tôi đưa cho Chớ chiếc võng dù, dù lòng vẫn băn khoăn không biết Chớ sẽ dùng nó thế nào trong một đêm nhiệt độ có thể xuống dưới không độ giữa rừng Hoàng Liên Sơn.

Trong đêm chập chờn mộng mị tôi thấy chiếc võng sẽ đưa Chớ lên cao mãi, giữa bầu trời bời bời gió tuyết.

Pót-tơ là một từ trong tiếng Anh nghĩa là người mang vác. Người ta có thể gọi một cách suồng sã là “cửu vạn”, “phu phen”, hay đơn giản chỉ là “người khuân vác”. Nhưng nếu gọi vậy chỉ e các công ty lữ hành không tuyển được người làm. Lòng tự trọng của người Mông rất cao. Họ muốn đặt mình vào vị trí của những người giúp đỡ chứ không phải là người phục vụ, không là “kẻ hầu người hạ”. Theo sự phân chia công việc của các nhóm lữ hành, pót-tơ làm công việc “cấp” thấp nhất. Việc lựa chọn pót-tơ cũng đơn giản, chỉ cần khỏe mạnh, quen đi rừng, leo dốc, biết nghe lời… là đủ tiêu chuẩn.

Việc biết nghe lời cũng có điểm rất thú vị. Thông thường các nhóm pót-tơ đều có một người phụ trách. Người phụ trách phải là người Mông, thạo tiếng phổ thông. Người này sẽ cắt đặt công việc cho mỗi thành viên. Và thực tế, các thành viên chỉ “nghe lời” người phụ trách của mình. Tôi nghe chuyện về nhiều ông khách “ẩu”, quát mắng pót-tơ, kết quả là bị pót-tơ bỏ rơi giữa rừng. Du khách cần xây dựng mối quan hệ hài hòa, bình đẳng, tôn trọng với pót-tơ - người giúp đỡ không thể thiếu trong hành trình chinh phục đỉnh Phan Xi Păng.

Những nghệ sĩ kèn nhỏ tuổi sẵn lòng chụp ảnh chung cùng du khách.

Tôi đã có một chút trải nghiệm về vấn đề này. Do đoàn của chúng tôi đi rất đông với số lượng pót-tơ lên đến 50 người của 7 nhóm lữ hành, nên việc bám theo đúng nhóm để có cái ăn, chỗ ở rất quan trọng. Bạn không thể tùy tiện đi sang nhóm khác xin ăn. Chắc chắn pót-tơ sẽ không chia thức ăn cho bạn. Hành vi như vậy có thể coi là khiếm nhã ở nơi khác nhưng trong hành trình lên đỉnh Phan Xi Păng là nguyên tắc sống còn. Vì pót-tơ chỉ mang đủ lượng thức ăn, nước uống cho riêng đoàn của họ.

Đương nhiên, những thanh niên người Mông là những người rất hào hiệp, họ có thể nhường phần ăn, chỗ ở của chính họ cho bạn chứ không phải là phần của du khách.

Nhóm pót-tơ của tôi có Thào A Dàng là trưởng nhóm. A Dàng sẽ hành động đúng như vậy với những du khách của Mã A Chớ.

Người Mông hành động theo cái lý. Cái lý này chặt chẽ và được tôn trọng hơn bất cứ nội quy nào. Nếu không có cái lý của người Mông, cùng với sự tận tình chu đáo của họ hẳn nhiều chuyến chinh phục đỉnh Phan Xi Păng của nhiều người không thể thực hiện được.

Anh Đào Đức Phong, giám đốc doanh nghiệp lữ hành Green Sa Pa kể cách nay hơn chục năm, ngày mới lập doanh nghiệp chưa đánh giá đúng tình hình, chưa hiểu biết văn hóa Mông nên nhiều lần hợp đồng bị đổ vỡ. Chuyện rất hay gặp là đầu tháng nào cũng phải đi thuê người. Anh nói: “Không có pót-tơ thì không có leo núi. Mà pót-tơ bỏ việc chẳng bao giờ nói trước”. Cuối cùng anh mới phát hiện rằng mình chưa thật sự hiểu về người Mông. Vậy là anh theo trai bản học tiếng Mông, học cách sống của người Mông và học “cái lý người Mông”. Chúng tôi bật cười khi thấy nhiều cậu pót-tơ trẻ gọi anh Phong là “thằng ông chủ”. Anh giải thích: “Đấy người nào lần đầu mới nghe những câu gọi như vậy đều dễ tự ái. Nhưng từ “thằng” người Mông hiểu theo cách khác, không có ý miệt thị. Vào bản thì sẽ thấy họ gọi “thằng bố”, “thằng mẹ”, “thằng vợ”… nghe lâu cũng thấy vui vui”.

Phần lớn pót-tơ chỉ nói được bập bẹ tiếng phổ thông. Người ta hỏi mà mình không trả lời là người ta nghĩ mình coi thường họ. Thế nên làm việc với người Mông dứt khoát phải biết tiếng Mông. Anh Phong cũng nói thêm rằng học tiếng Mông không khó, nếu ở bản, người có trí nhớ tốt chỉ cần một tháng là nói chuyện “ngon lành”. Người Mông tự trọng cao và hiền lành. Nếu bị xúc phạm họ sẽ lẳng lặng bỏ đi. Đó là một điều khó khi mới tiếp xúc với họ, vì anh sẽ không có cơ hội thứ hai để giải thích, trình bày. Cách làm việc của anh Phong, chính là tìm những anh người Mông là bộ đội xuất ngũ. “Vì họ làm việc khoa học, có tổ chức, biết cách nói, biết cách chỉ đạo công việc”. Như Mã A Chớ chẳng hạn, anh Phong chỉ cần nói là phục vụ bao nhiêu khách anh ta sẽ tự sắp xếp pót-tơ, lượng vật chất mang theo. Giám đốc Đào Đức Phong nói vớt: “Còn một điều nữa cũng rất quan trọng, đó là phải “dám” uống rượu hết mình với người Mông”.

Vậy là để trở thành trưởng nhóm pót-tơ, anh ít nhất phải thạo tiếng phổ thông. Pót-tơ làm nhiệm vụ mang vác phục vụ và luôn đi sau du khách. Họ không có nhiệm vụ chỉ đường. Việc chỉ đường là do “gai”-hướng dẫn viên. Những “gai” này nhất định phải giỏi cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh.

Bài và ảnh: Lê Đông Hà

(còn nữa)