QĐND - Đến Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4), chúng tôi được nghe nhiều cán bộ, chiến sĩ tự hào kể về chiến thắng Bàu Bàng 2, diễn ra ngày 12-11-1965, trong kháng chiến chống Mỹ - trận đầu sư đoàn tiêu diệt quân Mỹ cấp lữ đoàn. Nhưng ít ai biết, người góp phần quan trọng làm nên chiến thắng đó phải "năn nỉ" cấp trên cho nổ súng đánh địch. Ông là Đại tá cựu chiến binh (CCB) Trần Nam Hùng, Anh hùng LLVT nhân dân.
Thử lửa trận đầu
Cuối năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản. Để cứu vãn tình thế cho ngụy quyền Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam trực tiếp tham chiến. Tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, sáng 11-11-1965, Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ” của Mỹ biên chế gồm: 2 chi đoàn tăng-thiết giáp; 2 tiểu đoàn bộ binh, quân số hơn 2.500 lính. Chúng càn quét dọc Quốc lộ 13, từ căn cứ Lai Khê, tỉnh Bình Dương lên Chơn Thành, tỉnh Bình Long. Đến 16 giờ cùng ngày, chúng tạm dừng tại Bắc Bàu Bàng (huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương).
Qua trinh sát báo cáo, Đảng ủy, Chỉ huy Sư đoàn 9 vạch kế hoạch tập kích tiêu diệt Lữ đoàn 3 ngay trong đêm 11 rạng sáng 12-11-1965 theo hai phương án, đánh đêm và đánh ngày, trong đó phương án tập kích đêm là chính. Theo kế hoạch, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 (do Trần Nam Hùng làm Tiểu đoàn trưởng) được lệnh cấp tốc hành quân vượt hơn 20km từ thị xã Biên Hòa về huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tăng cường cho Trung đoàn 2 và đảm nhiệm tập kích trên hướng chủ yếu, nổ súng đầu tiên phát tín hiệu tiến công.
 |
|
Đại tá CCB Trần Nam Hùng bên những kỷ vật chiến đấu.
|
Đại tá Trần Nam Hùng nhớ lại: "Lúc nhận nhiệm vụ xong, thời gian còn quá ít, tiểu đoàn phải vận động gấp. Lợi dụng ánh trăng, tôi dùng que vẽ trên mặt đất giao nhiệm vụ cho các đại đội và hạ quyết tâm chiến đấu. Nhưng khi đơn vị tiếp cận mục tiêu thì không gặp địch. Lập tức, tôi nghĩ phải chuyển ngay sang phương án tập kích ban ngày. Tôi dự đoán, địch có thể đã cơ động đến một vị trí cách đây cũng không xa. Với tinh thần quyết đánh, tôi hội ý nhanh với đồng chí Lê Tấn Thắng, Chính trị viên tiểu đoàn, tổ chức bộ đội hành quân gấp về hướng Nam Bàu Bàng tìm địch để đánh. Sau những phút phân vân, đồng chí Thắng đề nghị họp Đảng ủy Tiểu đoàn, nhưng tôi đề nghị, thời gian không cho phép. Lúc ấy, tôi quả quyết: “Anh và tôi cùng quyết định, cùng chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp trên”. Thống nhất được trong chỉ huy, cả đơn vị tiến nhanh về hướng nam tìm địch. Thế nhưng lúc này, tôi vẫn chưa liên lạc được với trung đoàn xin ý kiến, do bộ phận thông tin rải dây chậm".
Ngừng một lát, ông kể: “Hơn 4 giờ sáng 12-11, cơ động đến Nam Bàu Bàng, phát hiện có địch, chúng tôi rất mừng, nhưng vẫn băn khoăn vì chưa xin được chỉ thị từ cấp trên. Do vậy một mặt, tôi triển khai nhanh đội hình chiến đấu, vừa động viên bộ đội. Bấy giờ do ta chưa được trang bị súng B40, B41 để diệt xe tăng, tôi đã điều toàn bộ súng phun lửa, ĐKZ áp sát trận địa địch, đồng thời cho bộ đội cột lựu đạn thành chùm để tiêu diệt xe tăng”. Sau đó, thông tin kịp rải dây tới, ông báo cáo gấp với trung đoàn xin chỉ thị nổ súng trước 5 giờ. "Nhận được báo cáo của tôi, đồng chí Nguyễn Văn Quảng, Chính ủy Trung đoàn 2 phân tích, các tiểu đoàn của Trung đoàn 2 đã lui về vị trí tập kết, trung đoàn cũng chưa liên lạc được với các đơn vị, nếu Tiểu đoàn 1 nổ súng sẽ rất khó khăn. Trước băn khoăn của cấp trên, tôi báo cáo nêu rõ sự cấp thiết và ý chí quyết đánh của đơn vị. Bởi trời sắp sáng, thời cơ nổ súng rất khẩn thiết, nếu không cho Tiểu đoàn 1 nổ súng thì đơn vị sẽ mất thời cơ, rơi vào tình huống cực kỳ khó khăn, bất lợi. Lúc ấy có thể các anh ấy lo, một tiểu đoàn của ta khó có thể giành thắng lợi trước một lữ đoàn quân Mỹ. Hiểu được băn khoăn của cấp trên tôi mạnh dạn khẳng định: Khi nghe tiếng súng của Tiểu đoàn 1, chắc chắn là các đơn vị của Trung đoàn 2 sẽ cơ động chi viện. Vì đây là truyền thống hiệp đồng của Trung đoàn 2...".
Đơn vị ông được cấp trên đồng ý cho đánh. Đúng 5 giờ, trời chưa sáng rõ, ông phát lệnh nổ súng. Lính Mỹ quá bất ngờ. Ngay loạt đạn đầu, hỏa lực đi cùng của ta đã bắn cháy nhiều xe tăng, thiết giáp tuyến tiền duyên. Nắm thời cơ, ông chỉ huy các mũi đột phá trước sự phản kích quyết liệt của quân Mỹ. Bọn địch rối loạn, nhiều xe tăng địch đâm thẳng vào đội hình chiến đấu của Tiểu đoàn 1. Ngay lúc đó, các tổ chiến đấu dùng chùm lựu đạn nhanh chóng áp sát mục tiêu, ngăn chặn hiệu quả được nhiều xe tăng-thiết giáp của địch. Nhưng do quá chênh lệch về lực lượng, hỏa lực địch mạnh, phản kích điên cuồng, làm cả hai mũi tiến công của Tiểu đoàn 1 chịu nhiều thương vong, nhưng bộ đội vẫn kiên cường chiến đấu. Đứng trước tình thế đó, ông đưa lực lượng dự bị vào đột kích. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, ta và địch giằng co từng tấc đất. Đúng lúc ấy, thì 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 2 kịp đến chi viện, chia thành hai mũi công kích mãnh liệt, tạo thế bao vây, chia cắt địch. Đến khoảng 8 giờ, chớp thời cơ, ông tổ chức ngay một trung đội dũng mãnh thọc sâu, đánh thẳng vào Sở chỉ huy lữ đoàn địch. Bị đánh trúng đầu não, mất thông tin liên lạc, quân Mỹ bỗng chốc hoảng loạn vỡ trận bỏ chạy. Tiểu đoàn 1 đã đánh chiếm được sở chỉ huy lữ đoàn. Đến 11 giờ cùng ngày, quân ta làm chủ hoàn toàn trận đánh, tiêu diệt 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 chi đoàn tăng-thiết giáp và toàn bộ Ban chỉ huy Lữ đoàn 3; bắn cháy 39 xe tăng, thiết giáp, phá hủy 8 khẩu pháo hạng nặng của địch.
Trận đầu trên chiến trường Nam Bộ, Quân giải phóng tiêu diệt quân Mỹ cấp lữ đoàn. Chiến thắng Bàu Bàng 2 đã giải quyết cơ bản nỗi băn khoăn của bộ đội lúc bấy giờ về phương thức tác chiến với quân Mỹ. Với thành tích chiến thắng Bàu Bàng 2, Tiểu đoàn 1 được tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba. Tiểu đoàn trưởng Trần Nam Hùng được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Từ chiến thắng Bàu Bàng 2, Quân ủy, Bộ tư lệnh Miền đã chỉ đạo Sư đoàn 9 tổng kết, biên soạn tài liệu “Một số kinh nghiệm về chiến thuật của Mỹ và cách đánh của chủ lực ta qua hoạt động của Sư đoàn 9” để phổ biến cho các đơn vị. Đã hơn 48 năm trôi qua, ông vẫn còn nhớ như in lời khen của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: “Có đồng chí Trần Nam Hùng chủ động cương quyết tìm địch, bám nắm địch, dám đánh Mỹ, là một trong yếu tố quan trọng làm nên chiến thắng Bàu Bàng 2”.
Sinh ra và lớn lên ở xã Lộc Hưng (Trảng Bàng, Tây Ninh), ngay từ nhỏ, ông đã thấm sâu lời thề vùng đất rừng Rong, ra đi kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1945 mới 14 tuổi, theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ, Trần Nam Hùng hăng hái tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại quê nhà. Tháng 12-1946, ông nhập ngũ vào đơn vị lưu động Hoàng Thọ. Năm 1956, tốt nghiệp Học viện Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc), ông trở lại chiến trường miền Nam. Tham gia chiến đấu hơn 500 trận, Trần Nam Hùng trưởng thành từng bước từ chiến sĩ đến Phó tham mưu trưởng Quân khu 7. Với nhiều chiến công, ông được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân và nhiều huân, huy chương các loại. Năm 1993, trở về với cuộc sống đời thường, ông vẫn tích cực tham gia công tác xã hội, giúp đỡ đồng đội có hoàn cảnh khó khăn.
Tấm lòng của người anh hùng
Tôi đến thăm Đại tá Trần Nam Hùng, ở phường 7 (Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh) vào ngày cuối tuần, đúng lúc ông vừa đi bàn giao nhà tình nghĩa tặng CCB thương binh Lê Văn Mực, nguyên Đại đội phó Đại đội 2, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 2, Sư đoàn 9), ngụ ở xã Hòa Hiệp (Tân Biên, Tây Ninh) trở về. Hỏi chuyện, ông xúc động kể: "Rời quân ngũ năm 1976, ông Mực chủ yếu đi làm thuê, kinh tế không đủ ăn. Nay đã 75 tuổi, ông Mực vẫn ở căn nhà tranh tạm bợ. Gặp đồng đội mà tôi không cầm được nước mắt. Tôi bàn ngay với đồng đội Hội CCB Sư đoàn 9, tìm đến Công ty Truyền Tâm và vận động công ty hỗ trợ 50 triệu đồng xây tặng ông Mực căn nhà 50m2. Trước đó vào cuối năm 2012, tôi đi tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở tỉnh Tây Ninh và đến thăm CCB Nguyễn Văn Khoát cũng đã hơn 70 tuổi, nguyên Chính trị viên phó Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2, Sư đoàn 9), ngụ ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Khi đến, tôi thấy ông Khoát mắc bệnh nan y, đã chữa trị nhiều năm nhưng chưa khỏi. Ông Khoát đang nằm trong căn nhà xiêu vẹo đã sụp một góc. Thương đồng đội, tôi lại cùng các anh em khác lặn lội đến vận động Công ty Dịch vụ bay Tân Sơn Nhất hỗ trợ 50 triệu đồng, xây tặng căn nhà tình nghĩa tặng ông Khoát. Mỗi lần đồng đội khó khăn được tặng nhà, lòng tôi như ấm thêm".
Chúng tôi được biết, từ năm 1994 đến nay, ông vận động các doanh nghiệp, nhà hảo tâm xây được 300 căn nhà tình nghĩa tặng CCB có hoàn cảnh khó khăn (mỗi căn nhà hỗ trợ từ 10 triệu đến 50 triệu đồng) tặng đồng đội khó khăn. Không những vậy, ông còn tìm kiếm cất bốc được 120 bộ hài cốt liệt sĩ. Mới đây tháng 6-2013, ông tự mình về xã Suối Ngô (Tân Châu, Tây Ninh) tìm kiếm cất bốc hài cốt liệt sĩ Trần Soa, quê ở tỉnh Hà Tĩnh, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ TP Hồ Chí Minh.
Rời quân ngũ năm 1993, ông tích cực tham gia các hoạt động tại địa phương. Ông được các CCB tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội CCB quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh và Chủ tịch Hội CCB Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4). Ở cương vị nào ông cũng sáng tạo, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ở ông tác phong quân nhân, ý thức tận tâm hết mình vì nhiệm vụ, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn tỏa sáng. Tâm sự với chúng tôi trong buổi gặp mặt các gương điển hình tiên tiến của TP Hồ Chí Minh, tháng 6-2013, ông vui vẻ cho biết: “Đó là thành tích của đồng đội. Làm theo lời Bác Hồ dạy, tôi luôn gần gũi đồng đội và nhờ đồng đội luôn ở cạnh tôi. Đồng đội trong chiến đấu sống chết có nhau, bây giờ hòa bình càng có điều kiện để giúp đỡ nhau”.
Bài và ảnh: NGUYỄN DUY HIỂN