Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, theo lời Bác Hồ dạy, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn khẳng định vai trò là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Trên mặt trận sản xuất, xây dựng kinh tế, các doanh nghiệp quân đội đã có những đóng góp to lớn: không chỉ đặt dấu ấn lên các công trình mang tầm vóc thế kỷ của đất nước mà họ còn có những đóng góp rất quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân…
Ngày doanh nhân Việt Nam năm nay, Bộ Quốc phòng đã lựa chọn 10 gương mặt doanh nhân tiêu biểu để giới thiệu với Hội đồng tuyển chọn doanh nhân tiêu biểu của cả nước. Hội đồng này đã chọn 5 đồng chí, là chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp trong quân đội. Mỗi người một vẻ, bề dày thành tích thì nhiều nhưng chúng tôi chỉ có thể phác họa những nét chính trong công việc của họ.
Xây dựng văn hóa “viễn thông quân đội”
Trong cơn lốc của kinh tế thị trường, khi mà sự lỗ lãi len lỏi vào mọi ngõ ngách của những toan tính làm ăn thì nhiều lúc, lắm nơi giá trị văn hóa bị coi nhẹ. Thế nhưng, có một doanh nghiệp quân đội lại coi văn hóa là gốc rễ của sự phát triển-đó là Tổng công ty viễn thông quân đội. Đại tá Tống Thành Đại, Phó tổng giám đốc khẳng định: Năm 2006, lãnh đạo Tổng công ty đứng đầu là Thiếu tướng-Tổng giám đốc Hoàng Anh Xuân đã xác định rõ hai nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng một cơ chế vận hành mang tính hệ thống nhằm giảm yếu tố chủ quan và xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Lý do là đã đến lúc cần sự kết dính về văn hóa, thống nhất về nhận thức và phương châm hành động, nếu không doanh nghiệp càng to ra thì càng thiếu tính thống nhất, đó là một nguy cơ…
Điều đáng quý là từ Tổng giám đốc đến cán bộ, công nhân viên đều tâm niệm rằng những giá trị cốt lõi xây dựng văn hoá đó là lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm nghiệm; học tập và trưởng thành qua thách thức và thất bại; thích ứng nhanh là sức mạnh cạnh tranh; sáng tạo, tạo sự khác biệt; tư duy hệ thống, nghệ thuật để đơn giản hoá cái phức tạp; kết hợp đông-tây; giữ gìn truyền thống và cách làm của người lính; doanh nghiệp là ngôi nhà chung, xây dựng doanh nghiệp chứ không phải anh và tôi.
Có thể nói những giá trị đó được đúc rút từ thực tiễn sinh động trong quá trình xây dựng và trưởng thành của đơn vị. Vì vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là rất mạnh. Giới viễn thông và người tiêu dùng ghi nhận rằng dịch vụ điện thoại đường dài sử dụng công nghệ VoIP với thương hiệu 178 của doanh nghiệp vào kinh doanh với giá rẻ, thúc đẩy sự tối ưu hóa mạng lưới, giảm giá cước. Doanh nghiệp khai trương việc cung cấp dịch vụ Internet với công nghệ tiên tiến, tốc độ cao cùng chính sách ưu đãi tạo uy tín với khách hàng; mở dịch vụ điện thoại di động 098 tạo bước ngoặt trong sự phát triển riêng và chung của ngành viễn thông. Tổng công ty triển khai dịch vụ bưu chính kinh doanh đa dạng, đã có ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước… Những việc đó đều được Tổng giám đốc cùng các đồng chí lãnh đạo khác của doanh nghiệp chỉ đạo trực tiếp, triển khai kiên quyết, đạt hiệu quả cao.
Mọi người còn nhớ sự kiên quyết và tập trung cao của Tổng giám đốc khi là chủ đề tài và trực tiếp chỉ đạo thi công dự án đường cáp quang 1B. Công trình này có ý nghĩa chiến lược, một sáng kiến giá trị cao về kinh tế, kỹ thuật, tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng. Hoàn thành lắp dựng và tổ chức khai trương cửa ngõ viễn thông quốc tế, đưa Tổng công ty chính thức trở thành nhà khai thác bưu chính-viễn thông hoàn chỉnh ở nước ta. Đồng thời với sự tập trung chỉ đạo, huy động nguồn lực, nghiên cứu và ứng dụng nhiều dịch vụ, công trình với bước đi thích hợp, phương châm đi tắt-đón đầu, sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, xác lập mạng lưới đa dịch vụ. Tính đột phá tạo bước tiến vượt bậc về công nghệ viễn thông đường dài trong nước và quốc tế đã được tạo nên. Luôn giữ gìn truyền thống quân đội, thực hiện nghiêm chỉ thị của Bộ Quốc phòng, các anh đã kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong mọi hoạt động; hoàn thiện hệ thống quy trình, quy chế trong lãnh đạo, chỉ huy; nâng cao hiệu lực bộ máy chỉ huy các cấp; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội.
Chiến lược trong thời kỳ mới đã được xác định và từng bước triển khai tích cực. Mục tiêu được đề ra là tạo sự phát triển bền vững, mạng lưới đa dịch vụ theo hướng điện thoại di động là chủ đạo, băng thông rộng là nền tảng. Đẩy mạnh phát triển mạng lưới trên cả nước với băng thông rộng và dung lượng lớn, tính ổn định cao và bền vững, trở thành doanh nghiệp bưu chính-viễn thông vào loại hàng đầu tại Việt Nam và có thương hiệu trên thế giới. Kinh doanh đa ngành nghề, kể cả các lĩnh vực bất động sản, tài chính, cả đầu tư trong nước và nước ngoài.
Tổng công ty viễn thông Quân đội đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức ban đầu, trở thành một doanh nghiệp có thế và lực, hứa hẹn những thành công có tính đột phá ở phía trước. Trong thành tựu đó, có công lao của Tổng giám đốc Hoàng Anh Xuân và những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy khác và toàn bộ cán bộ, công nhân viên của Tổng công ty.
Hiệu quả của khoa học và sáng tạo
Đại tá Phan Duy Thường, Giám đốc Nhà máy Z111, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng trưởng thành từ một kỹ thuật viên sửa chữa vũ khí bộ binh. Trải qua nhiều chương trình học tập, công tác, đến năm 1985 về công tác tại Nhà máy Z111. Ngày 1-1-2001 nhận nhiệm vụ Giám đốc Nhà máy.
Đồng chí kể: May mắn được làm việc tại Nhà máy hơn 30 năm, đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tuy luôn phải ở vùng sâu, xa các trung tâm văn hóa-xã hội nhưng đơn vị được xây dựng tương đối bài bản về nền nếp và kỷ luật công nghệ, tập thể cán bộ, công nhân có năng lực, trình độ chuyên môn khá, nhận thức chính trị vững, thực sự gắn bó như trong một gia đình. Vì vậy, khi được cấp trên tin cậy, giao nhiệm vụ nặng nề, tôi coi đó là niềm vinh dự, tự hào, gặp khó khăn không nản chí. Tôi coi việc phấn đấu, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt là một yêu cầu tất yếu.
Trong những năm chiến tranh, đồng chí đã tham gia nghiên cứu, chế tạo nhiều sản phẩm phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Những năm gần đây, với lượng kinh phí đầu tư không lớn lắm so với nhiều dự án, đồng chí cùng lãnh đạo, chỉ huy làm chuyển biến hẳn tình hình Nhà máy. Với 3 dự án, nhà máy xây dựng được một cơ sở sản xuất tương đối khang trang và đồng bộ, mua 93 thiết bị mới, có loại còn ít thấy ở nước ta, sửa chữa, nâng cấp 118 thiết bị, chế thử thành công 3 loại sản phẩm đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Đặc biệt là các sản phẩm chế thử đều đủ điều kiện sản xuất loạt lớn được ngay.
Mới đây, với một khoản kinh phí rất hạn chế, đồng chí đã đề xuất chủ trương tự lực chuẩn bị công nghệ và tự nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị chuyên dùng chế thử hai sản phẩm. Kết quả này khẳng định được hướng công nghệ và khả năng chế tạo sản phẩm rất cần cho quân đội. Nhiều vấn đề cơ bản về công nghệ đã được triển khai thành công. Hơn 30 năm qua, đồng chí đã chủ trì về kỹ thuật nghiên cứu chế tạo 14 loại sản phẩm quốc phòng với hơn 20 kiểu khác nhau.
Với cương vị giám đốc, cùng với việc tổ chức xây dựng, phát triển nhà máy, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và làm các mặt hàng kinh tế, các đơn hàng xuất khẩu có thị trường tiêu thụ với số lượng lớn đã được khôi phục lại. Thế là một cơ sở cơ khí, vào thời kỳ khó khăn, thiếu việc làm, sản phẩm khó tiêu thụ đã thoát khỏi thảm cảnh đó. Thu nhập của người lao động tăng lên, khó khăn được đẩy lùi dần, nhà máy dần ổn định. Mức tăng trưởng từ năm 2001 đến năm 2003 đạt mức bình quân hơn 25%/năm.
Khó ai quên được khi cần thiết bị để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đồng chí đã quyết định đầu tư thích đáng cho sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị cùng với giáo dục ý thức trách nhiệm người thợ. Không đủ máy đặc chủng thì chỉ đạo, tổ chức thiết kế cải tiến kết cấu để mở rộng tính năng của máy sẵn có và tự chế máy chuyên dùng. Còn để khắc phục tình trạng máy kém chính xác, đồng chí đã tập trung chỉ đạo cơ quan kỹ thuật tăng cường chế tạo dụng cụ, giải pháp công nghệ tối ưu, hiệu quả cao. Nhờ vậy mà với vốn liếng ban đầu là các thiết bị phổ thông đã khai thác 40 năm, Nhà máy vẫn sản xuất được các sản phẩm quốc phòng chất lượng rất cao và hàng kinh tế đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Khi tay nghề của nhiều công nhân còn yếu, cùng với tăng cường xây dựng quy trình chi tiết cho từng công việc, đồng chí đã chỉ đạo phát động phong trào các tổ, nhóm giúp nhau. Mỗi nhóm đều có những thợ khá chịu trách nhiệm kèm cặp, hướng dẫn thợ yếu. Vì vậy, tay nghề của công nhân được nâng lên rõ rệt.
Chữ tín với khách hàng được lãnh đạo và chỉ huy Nhà máy rất coi trọng. Đồng chí Giám đốc nhận thức đúng vai trò then chốt của kỹ thuật-công nghệ. Gắn kết quan hệ giữa người thợ-kiểm nghiệm viên và cán bộ kỹ thuật. Bộ ba này khi cộng đồng trách nhiệm đã giúp Nhà máy giảm đến mức thấp nhất hiện tượng hư hỏng sản phẩm và chính họ lại bổ sung kiến thức cho nhau. Năm nào cũng có khoảng 150 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được phát huy. Công tác giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm đối với từng cán bộ, công nhân trong bảo đảm chất lượng sản phẩm cùng với triển khai xây dựng hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn quốc tế ISO9001-2000.
Trải qua những thời kỳ máu lửa chiến tranh và sôi động thời bình, Nhà máy luôn đứng vững và trong thế đi lên, cũng bởi có được những người lính không ngại khó khăn, gian khổ, nêu cao tinh thần khoa học và sáng tạo, dưới sự dẫn dắt của đồng chí Phan Duy Thường và các lãnh đạo, chỉ huy khác của Nhà máy.
Góp công tạo thương hiệu: Tân cảng Sài Gòn
Công ty Tân cảng Sài Gòn đã là một thương hiệu nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Đại tá Nguyễn Đăng Nghiêm, Giám đốc Công ty cho biết: Tân cảng Sài Gòn trở thành một thương cảng có quan hệ với 51 hãng tàu trên khắp thế giới. Trong đó trực tiếp ký hợp đồng dịch vụ cảng cho 36 hãng tàu. Sản lượng thông qua năm 2005 là tương đương 14 triệu tấn, chiếm 51% thị phần vận chuyển bằng công-ten-nơ ở phía nam và hơn 30% sản lượng của cả nước. Năm nay, dự kiến mức tăng trưởng hơn 30%. Tân cảng cũng là thành viên Hiệp hội cảng biển Việt Nam và Hiệp hội cảng biển các nước ASEAN.
Đồng chí nhấn mạnh rằng: Công việc đòi hỏi phải chịu khó học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ toàn diện, nhất là năng lực lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy, quản lý khai thác cảng; thường xuyên chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, kế tiếp và tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Quả thực, việc quản lý, chỉ huy một doanh nghiệp như thế này không thể đơn giản bất cứ khâu nào. Mỗi người, mỗi tập thể là một khâu công việc trong dây chuyền cần sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác và bảo đảm độ an toàn rất cao. Người quản lý, điều hành phải hội đủ phẩm chất, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; từ xây dựng công trình, triển khai dịch vụ đến chỉ huy khai thác cảng. Nguồn lực con người được phát huy cả trí tuệ và tâm huyết. Họ luôn phải vươn lên làm chủ khoa học-kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Công ty đã tạo điều kiện việc làm và thực hiện đầy đủ chính sách cho người lao động. Cải thiện đời sống của mình, cán bộ, công nhân Công ty luôn quan tâm đến công tác xã hội và từ thiện. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm nay, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên đã đóng góp hơn 1 tỷ đồng giúp 140 hộ nghèo, 11 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng 1 nhà tình nghĩa, 4 nhà tình thương.
Đồng thời, bài toán đầu tư công nghệ, trang thiết bị mới cũng được giải để vừa phù hợp khả năng đầu tư vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ không ngừng tăng lên. Cảng Cát Lái của Công ty có chiều dài gần 1km cầu đã được đầu tư thiết bị chuyên dùng hiện đại và hệ thống quản lý công nghệ thông tin tiên tiến đạt tiêu chuẩn cảng công-ten-nơ quốc tế với số vốn lên tới 1.600 tỷ đồng bằng nguồn vốn tự có.
Công ty Tân cảng Sài Gòn đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Đồng chí Nguyễn Đăng Nghiêm nói: Chúng tôi quyết tâm phát triển Tân cảng Sài Gòn thành một doanh nghiệp kinh tế mạnh, đa ngành nghề, đa sở hữu, lấy khai thác cảng làm trung tâm.
Chúng tôi được biết, Công ty đã xác định thứ tự ưu tiên là hoàn thiện đầu tư cảng Cát Lái, xây dựng và khai thác cảng nước sâu Cái Mép Thượng-Bà Rịa-Vũng Tàu (dự kiến năm 2008 đưa vào khai thác); tham gia các dự án Nam Đồ Sơn, Văn Phong; tiếp tục mở rộng ngành nghề, tăng cường hợp tác liên doanh, chuẩn bị tốt cho hội nhập kinh tế thế giới. Khai thác cảng là nguồn cung cấp phần lớn vốn đầu tư phục vụ mở rộng ngành nghề và quy mô kinh doanh. Đồng thời phát triển các dịch vụ hỗ trợ khai thác cảng, đại lý giao nhận vận tải, kinh doanh địa ốc, cao ốc văn phòng, các dịch vụ vận tải biển, tài chính, du lịch và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp.
Hướng mới đã mở để Công ty Tân cảng Sài Gòn tiếp tục phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy năng động, sáng tạo trong quản lý, điều hành, mà đứng đầu là Giám đốc Nguyễn Đăng Nghiêm.
Gây dựng mô hình quản lý mới
Đại tá Lê Đình Tứ ngại nói chuyện về mình. Nhưng những gì cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng Công ty Hợp tác kinh tế (Quân khu 4) kể lại thì thật phong phú và sinh động. Và những ai đã từng biết, từng gặp và làm việc với đồng chí thì khi nói chuyện đều có chung một nhận xét rằng: Bác Tứ là một người rất đáng kính. Đồng chí là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị-người ký nhận vốn, đất đai, tài nguyên, quản lý Công ty theo Nghị quyết của Hội đồng quản trị; tổ chức nghiên cứu chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, các dự án đầu tư quy mô lớn, phương thức tổ chức quản lý mới.
Thành lập từ năm 1985, nhưng do đặc điểm công việc nên Công ty cũng chỉ được các doanh nghiệp trong và ngoài quân đội biết đến nhiều là khoảng mươi năm nay. Nhất là từ năm 2004 doanh nghiệp chuyển sang tổ chức và hoạt động theo mô hình Công ty mẹ-Công ty con.
Với nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp củng cố quốc phòng-an ninh trên địa bàn chiến lược, năm 1985, Công ty Hợp tác kinh tế Quân khu 4 chính thức được thành lập. Ra đời đúng vào thời kỳ đất nước bước vào công cuộc đổi mới, nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nên công ty gặp rất nhiều khó khăn, về nhân lực, nguồn vốn, công cụ, phương tiện sản xuất, kinh nghiệm quản lý kinh tế… Đảng ủy, Ban Giám đốc công ty đã tập trung lãnh đạo, xác định những nhiệm vụ trọng tâm, những việc làm cấp bách trước mắt và lâu dài, đồng thời phát huy nội lực, động viên mọi cán bộ, công nhân đoàn kết, thống nhất, nêu cao tinh thần làm chủ, tự lực, tự cường, vừa làm vừa học, đúc rút kinh nghiệm, kịp thời tháo gỡ mọi khó khăn...
Trên cơ sở đó dần mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, đứng vững trong cơ chế thị trường. Mặc dù là doanh nghiệp có địa bàn hoạt động khá rộng, cả trong và ngoài nước, chịu nhiều tác động chi phối của cơ chế thị trường và tình hình an ninh chính trị, nhưng Công ty đã luôn quán triệt và chấp hành nghiêm các chỉ thị, mệnh lệnh, quy định của Bộ Quốc phòng và Quân khu về nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh gắn với củng cố quốc phòng-an ninh trên địa bàn chiến lược. Đặc biệt, những năm qua, Công ty còn tham gia vào việc phát triển kinh tế, xã hội ở những vùng sâu, vùng xa trên đất bạn, tạo được mối quan hệ và uy tín đối với chính quyền và nhân dân nước bạn. Công ty đã giúp bạn xây dựng cơ sở hạ tầng những công trình lớn về đường giao thông, thủy lợi, công sở, trường học, bệnh xá, quy hoạch dân cư, xây dựng cụm bản…
Mấy năm nay, Công ty chuyển đổi tổ chức và hoạt động theo mô hình quản lý kinh tế Công ty mẹ-Công ty con, Công ty cổ phần. Việc thực hiện mô hình quản lý mới bước đầu đã đem lại kết quả, đơn vị ổn định và phát triển với quy mô và tốc độ nhanh hơn. Nhờ đầu tư, phát triển đúng hướng nên hiệu quả sản xuất-kinh doanh tăng nhanh. Nếu so năm 2006 (dự kiến) với năm 2003, vốn đầu tư tăng từ hơn 76 tỷ đồng lên 180 tỷ đồng; doanh thu tăng gần 5 lần; kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng gấp 3 lần; đóng góp ngân sách tăng hơn 3 lần… Công ty đang tiếp tục tập trung xây dựng và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia và đứng vững trong hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu đến năm 2009-2010 gia nhập câu lạc bộ các doanh nghiệp có doanh thu 1.000 tỷ đồng.
Những bước đường xây dựng và phát triển đó của doanh nghiệp luôn gắn với vai trò của đồng chí Lê Đình Tứ, trước là giám đốc và nay là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Theo Thượng tá Đặng Đình Lương, Trưởng phòng kinh tế Quân khu 4 thì đồng chí Lê Đình Tứ rất năng động, sáng tạo trong công việc quản lý và điều hành doanh nghiệp; tích cực sáng tạo trong đổi mới mô hình cơ chế quản lý doanh nghiệp; không ngừng mở rộng ngành nghề sản xuất-kinh doanh. Bản thân đã dám nghĩ dám làm, chịu trách nhiệm, có phát minh sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng chí còn là người rất chủ động trong thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực quản lý cho bản thân và cán bộ, công nhân viên, chú ý đến công tác đào tạo cán bộ kế cận, cán bộ làm công tác khoa học kỹ thuật; đồng thời chủ động đầu tư thiết bị mới; có uy tín và ảnh hưởng tích cực trong doanh nghiệp; làm tốt các chính sách xã hội đối với người lao động và trách nhiệm xã hội…
 |
Vững bước tiến cùng ngành than
Tổng công ty Đông Bắc là doanh nghiệp Kinh tế – Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng, là công ty con của Tập đoàn Công nghiệp than – Khoáng sản Việt Nam, được giao thực hiện hai nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh và huấn luyện quân dự bị động viên. Tổng giám đốc là Đại tá Nguyễn Mạnh Đạt.
Ở đây, việc chăm lo xây dựng nguồn lực con người được coi là vấn đề chiến lược. Nhiều giải pháp thu hút lao động, đặc biệt là công nhân kỹ thuật lành nghề được thực hiện, cùng với nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật, cử hàng trăm cán bộ, viên chức đi học đại học chuyên ngành khai thác mỏ và quản lý kinh tế; hàng nghìn công nhân được huấn luyện, đào tạo nâng cao trình độ. Có một so sánh là: Năm 1995 mới chỉ có gần 70 kỹ sư, cử nhân kinh tế, hơn 40 người có trình độ cao đẳng, gần 100 người có trình độ trung cấp các loại và hơn 500 thợ kỹ thuật các ngành nghề; thì đến nay đã có 499 người có trình độ đại học (tăng 713%); 157 người có trình độ cao đẳng (tăng 393%); 386 người có trình độ trung cấp các ngành nghề (tăng 386%); 4.190 công nhân kỹ thuật (tăng 838%).
Song song với việc đầu tư về chiến lược con người, Tổng công ty đã tích cực, chủ động đầu tư đổi mới trang thiết bị tiên tiến, hiện đại, đồng bộ dần theo dây chuyền sản xuất. Đến nay Tổng công ty có các loại xe, máy hiện đại công suất lớn như máy khoan thủy lực, máy xúc thủy lực 5,7 – 6,7m3, ôtô vận tải trên 15 - 55 tấn với tổng số: 701 xe, máy, đáp ứng yêu cầu sản lượng khai thác than ngày càng tăng cao. Trong khai thác than hầm lò, từng bước thực hiện cơ giới hóa một số khâu trong khai thác hầm lò, đưa cột chống thủy lực và các vì chống thép vào thay thế cho cột chống gỗ, đưa máy Combai đào lò AM50Z, máy khoan trong lò, băng tải dốc, tàu điện ắc quy, máy cào… áp dụng công nghệ khấu than lò chợ thay thế cho khấu buồng, làm tăng năng suất lao động, nâng cao sản lượng khai thác than và bảo đảm an toàn tốt hơn trong sản xuất. Những năm gần đây, Tổng công ty đã đầu tư trên 100 tỷ đồng/năm mua sắm trang thiết bị mới phục vụ cho sản xuất, đưa năng suất khai thác than hầm lò từ 1,5 tấn/ca/người lên đến 3,5 đến 4 tấn/ca/người.
Trong 10 năm qua, Tổng công ty liên tục sản xuất kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát triển được vốn. Năm đầu, vốn của Tổng công ty chỉ có 18 tỷ đồng, đến năm 2005 đã tăng lên 121 tỷ đồng (tăng 6,7 lần); lợi nhuận năm 1996: 18,95 tỷ đồng, năm 2005: 39,9 tỷ đồng (tăng 2,1 lần), lợi nhuận thực tế khoảng 200 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã điều tiết để lại Tổng công ty là 39,9 tỷ đồng.
Hằng năm Tổng công ty đã chi hàng chục tỷ đồng cho công tác bảo vệ môi trường, trồng được từ 50 đến 70 nghìn cây xanh/năm, góp phần giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái.
Từ năm 2004 đến nay Tổng công ty Đông Bắc là đơn vị dẫn đầu Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam về sản lượng khai thác than và luôn chiếm khoảng 10% sản lượng của toàn ngành. Năm 1996 với quân số 4.000 người, chỉ sản xuất được 1,045 triệu tấn than; nhưng đến năm 2005 với quân số 5.300 người đã sản xuất được 3,465 triệu tấn than (sản lượng tăng gấp 3,3 lần trong khi quân số tăng 1,3 lần); doanh thu năm 2005: 1.557 tỷ đồng, năm 1996: 409 tỷ đồng (tăng 3,8 lần). Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công nhân viên không ngừng được cải thiện và nâng cao; Tổng công ty thực hiện tốt mọi chế độ, chính sách của Nhà nước, nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Từ các nguồn tự nguyện đóng góp của cán bộ, công nhân viên, lao động và nguồn quỹ phúc lợi, trong 10 năm qua Tổng công ty và bản thân Tổng giám đốc đã đóng góp cho công tác xã hội như chương trình xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ vì trẻ em, phụng dưỡng 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng... với tổng số tiền gần 10 tỷ đồng.
Bằng giọng tâm sự, đồng chí Nguyễn Mạnh Đạt nói: 10 năm qua Tổng công ty giành được nhiều thắng lợi trên các mặt công tác. Có được kết quả đó trước hết là do sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành cùng với sự nỗ lực cố gắng của cán bộ, công nhân viên, lao động trong toàn Tổng công ty. Còn bản thân tôi với cương vị là Tổng giám đốc đã tạo được sự đồng thuận về tư tưởng và hành động cùng với những cơ chế quản lý, điều hành hợp lý nên đã đạt được những thành tích đó.
YÊN CHI, CHÍ HIẾU, NGUYỄN YÊN